Tại cuộc gặp mặt hôm nay, trong bài phát biểu của mình, tôi sẽ không nói về Rutherford với tư cách một nhà khoa học và một người thầy, tôi muốn thông qua hoạt động của ông đề cập đến một trong những vấn đề phổ cập nhất - vai trò của cá nhân nhà khoa học lớn trong sự phát triển của khoa học.
Tôi đã từng nghe rất nhiều nhà hoạt động xã hội cho rằng chỉ cần các viện nghiên cứu được tổ chức tốt thì khoa học sẽ phát triển. Điều đó không sai, nhưng theo tôi để có những thành tựu lớn, các viện nghiên cứu có thể thành công mà không cần đến những nhà lãnh đạo lớn và các nhà khoa học hàng đầu. Giống như trong lĩnh vực quân sự, không có các thống soái tài giỏi thì không thể chiến thắng.
Như đã biết, sự phát triển của khoa học là ở việc tìm ra các hiện tượng mới của tự nhiên và tìm ra các qui luật chi phối các hiện tượng đó. Việc tạo ra được cái gì đó mới chưa tồn tại trước đó thuộc hoạt động sáng tạo của con người và nếu như chúng ta định lượng được khả năng sáng tạo của con người thì chúng ta hoàn toàn có thể giải quyết được bài toán quan trọng về tổ chức khoa học, tức là xác định trước được khả năng giải quyết các vấn đề khoa học của đội ngũ cán bộ được chọn. Đáng tiếc là đến nay chúng ta vẫn chưa làm được điều đó. Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng thành công của viện khoa học phụ thuộc hoàn toàn vào năng lực sáng tạo của tập thể được chọn. Theo các nhà toán học, sự phụ thuộc của hiệu quả hoạt động khoa học vào khả năng sáng tạo tuân theo qui luật của hàm mũ, trong đó khả năng sáng tạo của tập thể khoa học là số mũ của hàm mũ đó. Do đó chỉ cần giảm một ít giá trị số mũ thì kết quả hoạt động sáng tạo của tập thể sẻ giảm rất mạnh. Ngược lại, sự xuất hiện thậm chí một nhà khoa học lớn sẽ lập tức tăng mạnh mẽ hiệu quả hoạt động của cả tập thể khoa học. Thật vậy, lịch sử khoa học cho thấy một trường phái khoa học được chọn đúng sẽ đẩy khoa học về phía trước như thế nào. Ví dụ điển hình là trường phái của Rutherford tại phòng thí nghiệm Cavendish.
Khi xem xét hiệu quả hoạt động của cơ quan khoa học, không được bỏ qua một yếu tố quan trọng cần cho hoạt động sáng tạo trong khoa học cũng như trong nghệ thuật, đó là sự trân trọng của xã hội đối với các thành tựu sáng tạo. Trước những thành tựu đặc biệt cao trong hoạt động nghệ thuật ở Italia thời kì Phục hưng, một câu hỏi đặt ra trước các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật: tại sao trong một đất nước nhỏ như Italia, trong một thời gian tương đối ngắn, lại xuất hiện một đội ngũ lỗi lạc như Rafael, Titian, Michelangelo, Da Vinci và những người khác? Suốt những năm thế kỷ sau đó một đội ngũ thiên tài như thế đã không xuất hiện. Có phải đó là một sự may mắn ngẫu nhiên. Tôi nghĩ, Telne trong công trình tuyệt vời của mình “Triết học nghệ thuật” đã giải thích nguyên nhân của sự ra đời một đội ngũ thiên tài như thế chính là do ở nước Italia phồn vinh về kinh tế khi đó đã xuất hiện một xã hội biết đánh giá cao nghệ thuật, hiểu đúng nó và ủng hộ những tài năng lớn nhất.
Tương tự, một đội ngũ các nhà vật lí kiệt xuất như Maxwell, Rayleigh, Thomson, Rutherford, những người đã lần lượt lãnh đạo phòng thí nghiệm Cavendish của Đại học Cambridge, sẽ không thể xuất hiện nếu ở Anh khi đó không tồn tại một xã hội biết đánh giá đúng và ủng hộ hoạt động của các nhà khoa học.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy số những người có đủ khả năng sáng tạo để tạo ra ảnh hưởng rõ rệt lên sự phát triển của khoa học và nghệ thuật là rất ít. Điều này được thể hiện qua tỉ lệ các công trình khoa học được công bố với số lượng các công trình có ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa học, hay trong một số lượng lớn những bức tranh của các họa sĩ, rất ít những bức tranh có thể coi là có giá trị cao về nghệ thuật. Chính Karl Marx đã giải thích giá cả cực kì cao của các kiệt tác nghệ thuật là vì trong giá cả của chúng có chứa cả chi phí cho toàn bộ số lượng lớn các bức tranh tranh không có giá trị nghệ thuật. Sự chọn lọc rất khắt khe như thế cũng xảy ra trong văn học và âm nhạc. Nhưng rõ ràng để khoa học và nghệ thuật phát triển cần có một số lượng lớn các công trình khoa học và tác phẩm nghệ thuật để từ đó có thể chọn ra một phần nhỏ, phần nhỏ này thúc đẩy khoa học và phát triển nghệ thuật. Để thực hiện việc chọn lọc như vậy thì cần tồn tại một xã hội hội lành mạnh biết nhìn nhận đánh giá đúng các công trình tác phẩm xuất sắc nhất.
Do đó việc tổ chức khoa học không chỉ cần đảm bảo những điều kiện tốt cho nghiên cứu khoa học, mà còn cần tạo ra được những điều kiện cho việc đánh giá đúng những kết quả nghiên cứu, biết cách lựa chọn những người tài. Và điều này chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động của những nhà khoa học lớn và các nhà tổ chức khoa học lớn, ví như Rutherford.
Trong tổ chức khoa học khó nhất và quan trọng nhất chính là chọn được những thanh niên có thiên phú sáng tạo và tạo ra những điều kiện để tài năng của họ được phát triển đầy đủ ngay khi họ chỉ mới bắt đầu công việc. Sai lầm chính thường gặp là người ta hay nhầm lẫn khả năng nhận thức và sự hiểu biết rộng là những phẩm chất của sáng tạo. Trong tiểu sử của Rutherford có một sự kiện rất đáng chú ý. Khi ông còn là nhà khoa học khởi đầu ở New Zealand, người ta đang tiến hành tuyển chọn từ những người tốt nghiệp đại học để tìm ra người có năng khiếu nhất, nhằm trao học bổng cho anh ta tiếp tục công việc khoa học tại Đại học Cambridge. Tôi không nhớ ai được chọn là ứng cử viên số một, nhưng Rutherford là ứng cử viên số hai. Tình cờ nhờ người thứ nhất không đến nhận việc nên Rutherford mới trúng tuyển. Trong lịch sử khoa học, những sai lầm như thế không hề ít và nguyên nhân ở chỗ người ta không biết đánh giá phẩm chất sáng tạo của nhà khoa học trẻ, và đánh giá quá cao khả năng học thuộc tư liệu.
Nghiên cứu những công trình đầu tiên của những nhà khoa học lớn như Rutherford sẽ rất thú vị. Những công trình này giờ đây đã bị lãng quên vì các phương pháp được sử dụng trong đó đã cũ và những kết quả định lượng ngày nay chính xác hơn nhiều. Nhưng qua nghiên cứu các công trình đó cho thấy trí tưởng tượng và sự dũng cảm trong việc xây dựng các giả thuyêt khoa học, cảm nhận trực quan là yếu tố chủ yếu quyết định thành công khoa học sau này của ông.
Kinh nghiệm sống của tôi chỉ ra rằng tài năng chính của nhà lãnh đạo của viện nghiên cứu chính là khả năng đánh giá năng lực sáng tạo của các nhà khoa học trẻ. Thiếu năng lực này nhà khoa học sẽ không thể xây dựng cho mình tập thể khoa học mạnh. Và một trong những yếu tố giúp nhà quản lý khoa học phát hiện đúng tài năng nhà khoa học trẻ là qua nghiên cứu công trình gốc của các nhà bác học kinh điển vĩ đại. Hiển nhiên Rutherford đã là một trong những nhà tổ chức khoa học tài năng nhất và tài năng chính của ông là ở chỗ ông biết tuyển chọn những nhà khoa học trẻ theo khả năng sáng tạo của họ. Ông cũng rất biết đánh giá đặc điểm tài năng của nhà khoa học, một điều hết sức quan trọng để giúp anh ta phát triển năng lực sáng tạo.
Trở lại với câu hỏi được đặt ra ban đầu về vai trò của cá nhân trong phát triển khoa học. Mặc dù con đường của khoa học đã được định trước, nhưng việc khoa học tiến bước theo con đường đã định chỉ được đảm bảo bởi công trình của một số lượng nhỏ các nhà khoa học đặc biệt tài giỏi. Chất lượng tuyển chọn những nhà khoa học có thiên phú sáng tạo và tạo ra các điều kiện để phát triển tài năng là yếu tố cơ bản đảm bảo cho khoa học phát triển ở trình độ cao. Nhà nước các tổ chức xã hội, không chỉ đánh giá đúng những thành tựu của nhà khoa học, mà còn cho họ cảm nhận được rằng hoạt động của họ cần và có ích cho nhân loại. Những người như Rutherford không chỉ là niềm tự hào của quốc gia, nơi nhà khoa học sinh ra và lớn lên, họ trở thành niềm tự hào của cả nhân loại.
Trần Đức Lịch lược dịch từ cuốn ЭКСПЕРИМЕНТ,ТЕОРИЯ ПРАКТИКА
---
* Phát biểu của Pyotr Kapitsa (1894 – 1984), nhà vật lí Xô viết, giải Nobel 1978, tại lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh (1971) của Ernest Rutherford - cha đẻ của vật lý nguyên tử