Brian Martinson, nhà xã hội học trực tiếp thực hiện cuộc khảo sát đầu tiên ở quy mô lớn về những hành vi sai trái trong khoa học năm 2005 của Tổ chức HealthPartners Research Foundation cho biết, những giả mạo trong nghiên cứu do khoa học hiện nay đã có sự thay đổi lớn trong khả năng cạnh tranh dành tài trợ và áp lực thương mại hóa sản phẩm của các nhà khoa học.
											Việc biến khoa học thành “một doanh nghiệp lớn” đã không lường trước  được một số quy tắc trong khoa học không phù hợp với mô hình này.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Đại học New South Wales (Úc), trong tháng  2/2013, có bài phân tích về chủ đề này đăng tải trên vnmed.net cho thấy,  khoa học hiện đại hiện đang chịu sự chi phối bởi ‘hai thế lực đứng đằng  sau’ là chính phủ và các công ty kĩ nghệ lớn. Cả hai cung cấp kinh phí  cho hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học và là nguồn nuôi sống các  nhà khoa học.
Đáng lưu ý hiện có gần 80% các nghiên  cứu lâm sàng y học do các công ty dược tài trợ. Phần lớn các nghiên cứu  khoa học tiến hành trong bộ đôi quyền lực này lại có các tiêu chuẩn khoa  học bị thay đổi liên tục, nhiều khi không theo những nguyên tắc ‘khoa  học’ mà chỉ thích nghi với môi trường thực tế.
Đồng quan điểm, Giáo sư Ferric Fang tại  Khoa Y học, Đại học Washington cũng cho rằng, mức độ tài trợ cho khoa  học ngày nay không đủ đã tạo ra một cuộc cạnh tranh cao. Nếu phát triển  được nguồn lực tốt hỗ trợ các đơn vị khoa học thì sẽ không chỉ làm giảm  các hành vi sai trái mà còn cải thiện cuộc sống của tất cả các nhà khoa  học và cho phép họ dành nhiều thời gian vào giải quyết các vấn đề nghiên  cứu thay vì việc phải xoay sở tìm các quỹ tài trợ.
Số kinh phí tài trợ hạn hẹp, cộng với cuộc sống mưu sinh, duy trì nghề  nghiệp của nhà khoa học, lại cộng thêm những khiếm khuyết trong hệ thống  bình duyệt đề tài nghiên cứu và bài báo khoa học.
Ở không ít nước, muốn nhận được tài trợ  thì các nhà khoa học phải công bố được các công trình khoa học, cụ thể  là các bài báo trên những tạp chí uy tín như Nature chẳng hạn.
Áp lực bài báo và kinh phí tài trợ sẽ  khiến các tác giả dễ theo xu hướng chứng minh tính khả thi của giả  thuyết đưa ra, thậm chí ngay cả khi có những bất ổn thực tế trong nghiên  cứu. Theo một thống kê ước tính từ năm 1990 đến năm 2007, số báo cáo  khoa học hỗ trợ giả thuyết nghiên cứu tăng cao lên đến 22%.
Khâu đánh giá đề tài để tài trợ cũng tồn tại sự không công bằng. Trong  khi một bộ phận người làm khoa học trở nên giàu hơn thì phần còn lại  không nhận được gì. Cứ cho là vậy thì vẫn còn khâu kiểm tra, bình duyệt  các bài báo khoa học trước khi được đăng tải trên các tập san khoa học  chuyên môn nữa.
Nhưng, cơ chế kiểm duyệt cũng tồn tại  không ít khiếm khuyết. Hội đồng biên tập phải có chuyên môn sâu, mất  nhiều thời gian để kiểm duyệt trong khi lại ít ưu đãi cho người biên  tập.
Ngoài ra, hội đồng không phải ai cũng có  trách nhiệm làm việc này, thậm chí còn có sự liên kết ‘ngầm’ trong xuất  bản bài báo khoa học.
Đặc biệt, sự xuất hiện hàng loạt các tạp  chí giả, hiện tượng mua bán bài báo, đứng tên để được nổi tiếng, thiếu  cơ chế bảo vệ cho người tố giác những sai phạm…đã góp phần làm tăng sự  dối trá trong khoa học.
Nếu sự suy đồi đạo đức trong nghiên cứu là trách nhiệm của nhà khoa học  thì có thể nói hệ thống chính sách, bình duyệt trong khoa học cũng góp  phần không nhỏ dẫn đến những sai trái đang diễn ra tràn lan hiện nay  trong khoa học.
 Quá trình vực lại niềm tin cho công chúng đối với khoa học đòi hỏi sự cải tổ của cả hai chiều cạnh: nhà khoa học và cơ chế.