Qua 40 năm, quan hệ giữa Việt Nam – Nhật Bản đã có những bước phát triển tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực. Cùng với sự hợp tác và đào tạo nguồn nhân lực; hỗ trợ, xây dựng cơ sở hạ tầng; phát triển chính sách pháp lý,… sẽ là những cơ sở quan trọng giúpViệt Nam tiến tới mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Nguồn nhân lực – một trong những yếu tố quyết định sự thành công
Theo báo cáo của Bộ KH&CN, thời gian qua, hợp tác trong lĩnh vực khoa học và công nghệ giữa Việt Nam – Nhật Bản phát triển hết sức tốt đẹp, ngày càng đa dạng, thiết thực và hiệu quả. Đặc biệt, vào tháng 8/2006 tại Hà Nội, Việt Nam và Nhật Bản đã ký Hiệp định Chính phủ về hợp tác khoa học và công nghệ, đây chính là tiền đề quan trọng cho các chương trình hợp tác giữa hai nước về KH&CN sau này.
Một số quan hệ hợp tác điển hình có thể kể đến như hợp tác giữa Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam (AGI) và Viện Nghiên cứu hóa - lý (RIKEN) trong lĩnh vực công nghệ sinh học; hợp tác giữa Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam (VAST) với Cơ quan Hàng không Vũ trụ Nhật Bản (JAXA) trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ;…
Ngoài ra, nhiều vấn đề KH&CN mà hai nước cùng quan tâm đã từng bước được giải quyết trong các lĩnh vực khác như: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ vũ trụ, công nghệ thông tin, công nghệ điện tử, tin học, viễn thông, năng lượng nguyên tử và năng lượng mới, công nghệ môi trường, công nghệ sinh học, biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, một số lĩnh vực hợp tác trọng điểm đang được thúc đẩy như hợp tác trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, phát triển Khu Công nghệ cao Láng Hòa Lạc, lĩnh vực sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng,...
Tính đến nay, Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ Việt Nam đào tạo về sở hữu trí tuệ cho gần 400 cán bộ thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Có thể nói, số lượng cán bộ Việt Nam được Nhật Bản đào tạo về sở hữu trí tuệ là lớn nhất so với các đối tác nước ngoài khác, nội dung đào tạo sát thực, hữu ích với chương trình đào tạo bài bản, chuyên nghiệp. Cục Sở hữu trí tuệ cũng thường xuyên hợp tác với Cơ quan Sáng chế Nhật Bản (JPO) triển khai Chương trình hợp tác về thẩm định kiểu dáng công nghiệp, theo đó JPO cung cấp kết quả thẩm định của các đơn kiểu dáng công nghiệp nộp tại JPO cho Cục Sở hữu trí tuệ nhằm mục đích giảm sự trùng lặp và tăng cường hiệu quả công tác thẩm định đơn kiểu dáng công nghiệp tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Về mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản hiện nay, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân cho biết, một yếu tố quan trọng hơn cả là Việt Nam đã có một đội ngũ cán bộ KH&CN được đào tạo bài bản tại Nhật Bản, nhiều người trong số đó đang làm việc và giữ những trọng trách tại các Viện nghiên cứu, trường đại học hay các doanh nghiệp Nhật Bản cũng như tại Việt Nam. Đây chính là tiền đề tốt cho việc tăng cường các hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ tiên tiến từ Nhật Bản vào Việt Nam nhằm góp phần phát triển mối quan hệ toàn diện của cả hai nước.
Nếu như năm 2005 có hơn 500 lượt cán bộ nghiên cứu của Việt Nam được cử sang Nhật Bản nghiên cứu dài hạn, ngắn hạn, đến năm 2012, con số này đã lên đến hơn 1.200 lượt người; số lượng sinh viên Việt Nam đang theo học tại Nhật Bản hiện đã lên đến hơn 5.000 người. Số lượng cán bộ nghiên cứu KH&CN của Nhật Bản được cử sang Việt Nam cũng không ngừng gia tăng, năm 2005 có khoảng 1.800 lượt người, đến năm 2012, con số này đã lên đến gần 2.600 lượt người.
Nguyên Thủ tướng Nhật Bản, Chủ tịch Viện nghiên cứu Khối cộng đồng Đông Á Hatoyama Yukio khẳng định, để chuyển giao công nghệ thành công thì việc đào tạo nguồn nhân lực là vô cùng quan trọng, Việt Nam cần phải xây dựng một hệ thống giáo dục để từ đó có thể đào tạo các nhà kỹ thuật từ những điều cơ bản nhất. Điều này, Việt Nam có thể tham khảo theo mô hình học tập của các trường cao đẳng kỹ thuật liên thông từ cấp 3 (KOSEN) của Nhật Bản. Ngoài ra, Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia có mối quan hệ đối tác chiến lược, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác khoa học – kỹ thuật, do vậy, ngoài lĩnh vực chuyển giao công nghệ và hợp tác nhân lực, Nhật Bản sẽ ưu tiên cho các lĩnh vực mà hiện Việt Nam còn yếu hoặc cần tập trung phát triển như điện nguyên tử.
Phát huy nguồn lực đầu tư
Cũng theo báo cáo của Bộ KH&CN tại Hội thảo “Hợp tác khoa học và công nghệ Việt Nam - Nhật Bản: Thành tựu và triển vọng” diễn ra gần đây tại Hà Nội, chỉ tính từ năm 2000 đến nay, hai nước đã có hơn 42 nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu khoa học theo Nghị định thư đã được ký kết với tổng kinh phí đối ứng từ phía Việt Nam được hỗ trợ trực tiếp từ Bộ KH&CN là hơn 102 tỷ đồng, tương đương khoảng 5 triệu USD.
Nói về nguồn ODA của Nhật Bản cho Việt Nam, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết, Nhật Bản hiện đang là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam với nguồn cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất - là nhà đầu tư số một; đồng thời là đối tác thương mại song phương lớn thứ ba của Việt Nam. Năm 2012, ODA Nhật Bản dành cho Việt Nam chiếm 30% tổng cam kết viện trợ nước ngoài cho Việt Nam. Bên cạnh đó, Nhật Bản hiện có gần 2.000 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 31 tỷ USD, chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam.
Đơn cử như Dự án phát triển Khu Công nghệ cao Hòa Lạc - một trong những dự án trọng điểm quy mô lớn được Chính phủ Nhật Bản cam kết hỗ trợ Việt Nam trong tuyên bố chung giữa hai Chính phủ nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 10/2006 là một trong những ví dụ điển hình về đầu tư trực tiếp FDI của Nhật Bản. Hiện nay, Dự án Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật Khu Công nghệ cao Hòa Lạc bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản có trị giá hơn 270 triệu USD đang được tích cực triển khai. Đồng thời, Dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam được xây dựng tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc với tổng vốn đầu tư là 600 triệu USD cũng đang được thực hiện. Ngoài ra, một số dự án khác như Dự án Đại học Quốc tế Việt – Nhật, Dự án Thành phố sinh thái tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc,... đang được thúc đẩy.
.jpg)
Ứng dụng công nghệ SAIBON của Nhật Bản trong xử lý ô nhiễm môi trường sau chăn nuôi lợn quy mô trang trại tại xã Tái Sơn, Huyện Tứ Kỳ (Hải Dương)
Đánh giá về sự hợp tác của hai nước, trong đó có lĩnh vực đầu tư, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam Yasuaki Tanizaki nhấn mạnh, cùng với việc tiếp tục viện trợ nguồn vốn ODA hàng năm cho Việt Nam, hiện nay Nhật Bản cũng đã có thay đổi về hình thức trong việc hợp tác. Đó là ngoài việc hỗ trợ Việt Nam về xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, Nhật Bản sẽ đồng thời tiến hành hỗ trợ cả về xây dựng cơ chế chính sách, xây dựng các hành động nhằm phục vụ kế hoạch đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập quốc tế về KH&CN, Nhật Bản là một định hướng ưu tiên của Việt Nam. Có thể nói, hai nước đã và đang có những điều kiện hết sức thuận lợi cần được khai thác để đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác này. Điều này đã được minh chứng cho những hành động hợp tác cụ thể của hai nước trong thời gian qua. Thêm vào đó, cùng với sự quan tâm và ủng hộ của hai Chính phủ, sự nỗ lực của các nhà KH&CN của hai bên, hợp tác về KH&CN của Việt Nam - Nhật Bản sẽ ngày càng phát triển và tương xứng với sự phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước trong thời gian tới.
Bài, ảnh: Ngũ Hiệp – Trần Hồng