Với Việt Nam, yêu cầu phát triển kinh tế theo hướng sản xuất công nghiệp đang ngày càng cấp bách. Song việc tìm ra hướng phát triển công nghiệp xanh theo hướng bền vững là một thách thức không nhỏ. Đòi hỏi sự chung tay của nhiều ngành, nhiều cấp đặc biệt là vai trò của các doanh nghiệp.
Sản xuất công nghiệp xanh mới ở giai đoạn bắt đầu
Trên thế giới, “xanh hóa công nghiệp” đã được tiến hành từ những năm 1990, nhưng đối với Việt Nam, khái niệm này vẫn còn khá mới mẻ. Việt Nam mới bắt đầu làm quen với xu hướng sản xuất này, với một số ít dự án năng lượng xanh được triển khai ở dạng thử nghiệm và những dự án 3R (giảm thiểu – tái sử dụng – tái chế) được quốc tế đánh giá cao về mặt lý thuyết.
Trong thực tế, từ khi Việt Nam ký tuyên ngôn sản xuất sạch hơn (SXSH) từ năm 1999 thì SXSH đã được giới thiệu và trình diễn thành công ở nước ta trong 10 năm qua, thông qua các dự án tài trợ của nước ngoài và bước đầu thực hiện trên diện rộng khắp các tỉnh thành, nhưng kết quả đến nay vẫn chưa được như mong đợi.
Ông Lê Minh Đức, Phòng Môi trường và Phát triển bền vững, Viện Chiến lược và Chính sách công nghiệp - Bộ Công thương cho biết, mặc dù đã có những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về áp dụng SXSH song trên thực tế, việc áp dụng SXSH còn gặp rất nhiều khó khăn. Đó là, nhận thức của các doanh nghiệp về lợi ích của SXSH còn hạn chế. Chính sách về phát triển công nghiệp xanh còn thiếu đồng bộ. Một chính sách do nhiều cơ quan chịu trách nhiệm; Năng lực khác nhau, góc nhìn và lợi ích khác nhau, chỉ đạo khác nhau và hiểu đầu mối điều tiết chính sách, giải quyết các mâu thuẫn.
Bên cạnh đó, việc tuyên truyền phổ biến SXSH cũng như các mô hình trình diễn kỹ thuật cao hiện nay còn đang rất khiêm tốn. Thống kê mấy năm gần đây cho thấy, mới chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp lớn áp dụng SXSH, trong khi còn có tới khoảng 600.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang có các hoạt động gây tác động chưa tích cực đến môi trường.
Đặc biệt, việc áp dụng SXSH còn đang thiếu một cơ chế chính sách khuyến khích công bằng và bình đẳng đối với các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù có đủ vốn đầu tư song không mấy mặn mà với SXSH bởi họ không được trích lợi nhuận để tái đầu tư, thu nhập của người lao động không được cải thiện. Cá biệt có doanh nghiệp bỏ ra hàng tỷ đồng để đầu tư cho SXSH, trong khi một số doanh nghiệp khác lại tự do xả các chất ô nhiễm ra môi trường cũng chỉ bị xử phạt hành chính với số tiền phạt quá nhỏ gây tâm lý không tốt đối với các doanh nghiệp có ý định đầu tư cho SXSH.
Các chuyên gia cũng nhận định, một trong những khó khăn lớn nhất mà sản xuất công nghiệp xanh ở Việt Nam đang gặp phải đó là hạn chế về nguồn nhân lực. Hiện nay, mới chỉ có 150 người đào tạo chuyên sâu, trong số đó chỉ có 20% thực sự trở thành chuyên gia trong lĩnh vực này.
Theo ông Phạm Gia Túc, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), sở dĩ công nghiệp xanh chưa phát triển mạnh ở Việt Nam một phần là do Chính quyền các cấp còn chưa quan tâm đúng mức, công tác quản lý chồng chéo, sự phối hợp giữa các cơ quan chưa nhịp nhàng, mang tính hình thức; hiệu quả triển khai thực còn thấp; năng lực cán bộ hạn chế.
Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp xanh thì công nghiệp Việt Nam mới chỉ chuyển biến bước đầu về lượng mà chưa có những thay đổi quan trọng về chất. Công nghiệp Việt Nam vẫn đang trong tình trạng gia công, lắp ráp đặc trưng, bởi giá trị thấp gia tăng thấp và trình độ công nghệ còn lạc hậu.
Cần sự chung tay
Phát triển công nghiệp xanh trên thế giới đòi hỏi phải có sự chuẩn bị cần thiết các điều kiện như điều kiện cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ và nguồn nhân lực. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Phần lớn các nước, đi cùng chính sách phát triển đã dành các khoản đầu tư rất lớn cho khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.
Do đó để phát triển mạnh mẽ sản xuất công nghiệp xanh, ThS. Trần Thùy Linh – Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công nghiệp- Bộ công thương cho rằng, cần nhanh chóng đưa ra đối sách cho các vấn đề phát triển công nghiệp xanh ở Việt Nam, trước mắt là cần sử dụng 3 tỷ USD ODA cam kết giai đoạn 2011 – 2015 của Hàn Quốc để tạo ra ngân sách nhất định cho việc chuẩn bị nền tảng cho công nghiệp xanh, tạo động lực thúc đẩy cho tăng trưởng xanh và bền vững. Cần chỉ rõ công nghiệp xanh hóa cũng như chỉ rõ phạm vi ưu tiên, đồng thời đặt sự quan tâm đặc biệt đến việc thu hút đầu tư từ nước ngoài của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bên cạnh đó, cần thiết phải có sự tham gia của Chính phủ trong việc đưa ra những chính sách, cơ chế nhằm khuyến khích “xanh hóa trong công nghiệp” một cách hiệu quả. Không chỉ là xây dựng, ban hành các văn bản quy định về bảo vệ môi trường mà cần xây dựng khung điều Luật cụ thể về tăng trưởng xanh, ít carbon, đưa ra các biện pháp tổng hợp như ưu đãi thuế; khuyến khích đầu tư vào công nghệ sạch; xây dựng mô hình doanh nghiệp “xanh” và đưa ra các mục tiêu “xanh” trong chính sách phát triển của đất nước.
Cũng theo ông Lê Minh Đức, công nghiệp Việt Nam có nhanh chóng hướng tới được nền sản xuất xanh hay không còn dựa vào một yếu tố vô cùng quan trọng, đó là quyết tâm của người đứng đầu mỗi cơ quan, doanh nghiệp. Ông cho rằng, phát triển công nghiệp xanh là vô cùng cần thiết nhưng cũng không ít những khó khăn. Nếu không có sự quyết tâm của Chính phủ và người đứng đầu các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp thì sản xuất công nghiệp xanh rất khó thành công.
Phát triển công nghiệp xanh tại Việt Nam cần có sự tiếp cận và giải quyết đa ngành trong thể chế và phối hợp chính sách công nghiệp xanh; sự tiếp cận theo vùng. Tăng cường cơ chế hợp tác công – tư có hiệu quả là những yếu tố quan trọng trong thực hiện chính sách tăng trưởng xanh.
Hoàng Anh