Trong những năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội nói chung của cả nước, công tác nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế của Viện Chăn nuôi cũng đã có những bước chuyển mình tích cực phù hợp với công cuộc đổi mới, phát triển của toàn xã hội. Viện Chăn nuôi có bước nhảy vọt thần kỳ trong việc tạo ra các giống vật nuôi có năng suất, chất lượng vượt trội.
PGS.TS. Ngô Thị Kim Cúc, Phó Viện trưởng Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chia sẻ với phóng viên xoay quanh vấn đề này.
Bước chuyển mình trong nghiên cứu khoa học
PV: Xin bà cho biết, công tác nghiên cứu khoa học của Viện thời gian qua?
- PGS. TS. Ngô Thị Kim Cúc: Trong những năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội nói chung của cả nước, công tác nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế của Viện Chăn nuôi cũng đã có những bước chuyển mình tích cực phù hợp với công cuộc đổi mới, phát triển của toàn xã hội. Trung bình mỗi năm Viện chủ trì thực hiện khoảng 90 – 100 nhiệm vụ KH&CN. Trong đó, các đề tài, dự án nghiên cứu về giống chiếm 35,52%, về dinh dưỡng, thức ăn chiếm là 27,59%, về công nghệ sinh học chiếm là 7,59%; lĩnh vực khác như kinh tế và hệ thống chăn nuôi thú y, môi trường, chế biến sản phẩm là 29,30%.
Nhờ việc phân chia khoa học, hợp lí các lĩnh vực nghiên cứu nên trong giai đoạn này Viện Chăn nuôi có bước nhảy vọt thần kỳ trong việc tạo ra các giống vật nuôi có năng suất, chất lượng vượt trội. Về lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, Viện đã thành công trong sử dụng kỹ thuật microsatellite, giải trình tự gen để phân tích đa dạng di truyền các giống vật nuôi (lợn, bò, gà), góp phần vào việc bảo tồn và khai thác các nguồn gen bản địa; Xác định được một số gen liên quan đến tăng trọng, độ mềm của thịt bò, hàm lượng mỡ sữa bò…góp phần tích cực cho công tác chọn tạo giống vật nuôi. Đồng thời, Viện cũng đã xây dựng thành công được phương pháp xác định mối quan hệ huyết thống ở quần thể bò dựa trên chỉ thị AND; Sử dụng kỹ thuật PCR để xác định loài trong bột thịt xương sử dụng trong chăn nuôi, có thể nhận biết được sự có mặt các loại mô của các loài như bò, lợn, gà trong hỗn hợp ở mức độ từ 0,5%. Viện cũng đã thành công trong giải trình tự một số gen virus H5N1 trên gia cầm, làm cơ sở cho xác định sự biến đổi các chủng virus cúm gia cầm ở nước ta hiện nay để có các giải pháp phòng chống phù hợp. Viện đã làm chủ công nghệ thu trứng trên bò sống, thụ tinh trong ống nghiệm, phân biệt giới tính, chia tách phôi, đông lạnh, giải đông và cấy truyền phôi, phục vụ việc nhân nhanh các giống lợn, bò cao sản. Từ công nghệ cấy truyền phôi, đến nay đã có hàng trăm bò sữa cao sản được sinh ra.
Với vai trò là đơn vị nghiên cứu khoa học đầu ngành về lĩnh vực về chăn nuôi, Viện đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực giống vật nuôi, dinh dưỡng và thức ăn chăn nuôi, quy trình công nghệ; sinh lý sinh sản, bảo quản chế biến sản phẩm chăn nuôi v.v.. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học của Viện đã được ứng dụng có hiệu quả vào sản xuất chăn nuôi, có giá trị cao trong thực tiễn cuộc sống. Viện Chăn nuôi đã trở thành địa chỉ tin cậy cung cấp nhiều chủng loại giống vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, quy trình công nghệ chăn nuôi tiến tiến cho các doanh nghiệp và trang trại trong cả nước. Những thành quả đó đã góp phần quan trọng vào sự phát triển ngành nông nghiệp nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
PV: Bà có thể nói rõ hơn về kết quả hoạt động chuyển giao tiến bộ KH&CN của Viện trong thời gian vừa qua, những công nghệ đã mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân cũng như góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội?
- Hàng năm, Viện đã chuyển giao tiến bộ KH&CN thông qua việc xây dựng hàng trăm mô hình khuyến nông, mở hàng trăm lớp đào tạo – tập huấn kỹ thuật cho người nông dân, chủ trang trại và cán bộ quản lý chăn nuôi – thú y ở khắp các địa phương trong cả nước. Công tác quảng bá, thông tin tuyên truyền các sản phẩm KH&CN của Viện cũng được tăng cường và mở rộng.
Trong những năm gần đây, Viện đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận 60 tiến bộ kỹ thuật cho các giống gia súc, gia cầm, quy trình chăn nuôi thú y, bảo quản chế biến sản phẩm chăn nuôi. Có 11 sản phẩm KH&CN được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trao tặng "Giải thưởng Bông lúa vàng" năm 2012 và 2015. (Gà Ri vàng rơm; Bốn dòng gà TP; Hai dòng vịt V2 và V7; Dòng lợn bố mẹ VCN21 và VCN22; Tinh bò đông lạnh VINALICA dạng cọng rạ; Khoáng KL-01 phòng chống bệnh sát nhau cho bò sữa; Gà hướng trứng VCN-GA1; Hai dòng gà lông màu hướng trứng: VCN/TP-HA01; VCN/TP-HA02; Hai dòng ngan: VCN/TP-VS; VCN/TP-V7; Bốn dòng đà điểu: VCN/TP-BV01; VCN/TP-BV02; VCN/TP-BV03; VCN/TP-BV04 và Môi trường pha loãng bảo tồn tinh dịch lợn L.V.C.N). Có 6 sản phẩm KH&CN được trao tặng “Sản phẩm Vàng chăn nuôi gia cầm Việt Nam năm 2016” do Cục Chăn nuôi và Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam bình chọn. Các sản phẩm này đã được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất với quy mô lớn và có hiệu quả kinh tế cao.
Mỗi năm Viện cung cấp từ hàng trăm ngàn đến hàng chục triệu con giống lợn, gia cầm dê cừu, thỏ có khả năng sinh trưởng và sinh sản cao. Một số sản phẩm của Viện hiện đang chiếm thị phần lớn như các giống gia cầm lông màu của Viện đang chiếm khoảng 30-35% thị phần, vịt giống chiếm khoảng 70% thị phần tại các tỉnh phía nam, các dòng lợn tổng hợp năng suất cao đang được nuôi phổ biến ở đồng bằng Sông Hồng và sông Cửu Long. Mỗi năm viện cung ứng ra thị trường khoảng 900 ngàn đến 1 triệu liều tinh trâu bò cọng rạ cho cả nước, chiếm khoảng 60% thị phần. Giống dê sữa và giống dê thịt của Viện chiếm khoảng 45% thị phần. Giá trị gia tăng do các sản phẩm KH&CN của Viện chuyển giao làm lợi cho xã hội hàng nghìn tỷ đồng/năm.
Cần có chính sách khuyến khích nghiên cứu phát triển
PV: Vậy trong quá trình chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất của Viện có những thuận lợi, khó khăn gì, thưa bà?
- Có thể khẳng định rằng Viện có những thuận lợi trong quá trình chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất. Thứ nhất là nhà nước luôn quan tâm đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ KH&CN nói chung và chăn nuôi nói riêng. Thứ hai là thương hiệu, uy tín của Viện trong suốt 65 năm qua đã luôn đồng hành cùng người nông dân trong chăn nuôi gia súc gia cầm nên được bà con tin tưởng về con giống có chất lượng cao, quy trình công nghệ chăn nuôi phù hợp. Đội ngũ cán bộ của Viện có chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm, tâm huyết với nghề và nhiệt tình với bà con nông dân. Thứ ba là có sự phối hợp chặt chẽ giữa Viện Chăn nuôi với các đơn vị bạn, các địa phương, các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp. Đặc biệt, cùng với sự phát triển chung của toàn xã hội, người chăn nuôi ngày càng tích cực đón nhận các tiến bộ KH&CN mới áp dụng trong sản xuất chăn nuôi để nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển bền vững.
Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên, Viện Chăn nuôi là đơn vị duy nhất chuyên nghiên cứu về vịt, ngan (Trong ảnh: Vịt biển mới nở)
Tuy nhiên, bên cạnh đó Viện gặp phải một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất như: Quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ còn nhiều nên việc chuyển giao ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất đạt hiệu quả không cao và khả năng nhân rộng thấp. Việc chuyển giao và ứng dụng tiến bộ KH&CN trong nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn về thiên tai, dịch bệnh, thị trường sản phẩm. Hiệu quả ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp rất khác nhau giữa các vùng miền, giữa các đối tượng tiếp nhận do sự khác biệt lớn về điều kiện tự nhiên, nguồn lực, về trình độ chuyên môn, về khả năng đầu tư và qui mô sản xuất. Việc thực thi các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ trong chuyển giao tiến bộ KH&CN còn gặp nhiều khó khăn.
PV: Theo bà, để phát huy tốt hơn nữa mối liên kết giữa nhà nông dân - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp - nhà nước, thời gian tới Nhà nước cần có những chính sách đổi mới, phát huy điều kiện thuận lợi cho các bên ra sao để việc ứng dụng KH&CN vào nông nghiệp ngày một phát triển?
- Hiện nay, Nhà nước đã có một số chính sách phát huy mối liên kết 4 nhà, phát triển ứng dụng KH&CN trong nông nghiệp như Quyết định số 1895/QĐ-TTg năm 2012 phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020, Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg về về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn... Viện đã kết hợp có hiệu quả các mô hình Viện – Trường – Doanh nghiệp, trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên để nghiên cứu tạo ra được những tiến bộ khoa học trong nông nghiệp nói chung và chăn nuôi nói riêng phải mất thời gian tương đối dài, đặc biệt là các nghiên cứu về giống cây trồng, vật nuôi. Do vậy cần có những chính sách đồng bộ, thông thoáng hơn nữa nhằm phát huy tốt nhất điều kiện của các bên như: Có chính sách đầu tư, khuyến khích mạnh mẽ thúc đẩy đầu tư thích đáng thúc đẩy nghiên cứu phát triển và ứng dụng những thành tựu tiến bộ KH&CN hiện đại ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp. Cùng với đó là Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư chiến lược trong việc tạo quỹ đất sạch tập trung; hỗ trợ công tác giải phóng mặt bằng; hỗ trợ việc hình thành các liên minh sản xuất quy mô lớn; chính sách ưu đãi về thuế, vay vốn … khi doanh nghiệp, người dân ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Để đẩy mạnh liên kết chuỗi trong sản xuất nông nghiệp, Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi về thuế, phí, vốn … cho các thành phần tham gia chuỗi, hay như có chính sách thúc đẩy quyền sở hữu trí tuệ trong chuyển giao tiến bộ KH&CN trong nông nghiệp.
Ngoài ra, Nhà nước cần thông tin về thị trường, thu thập thông tin, nghiên cứu, đưa ra dự báo về cung cầu thị trường, nhất là thị trường thế giới. Nhà nước phải có vai trò mở rộng thị trường thông qua việc ký kết các hiệp định với các nước, các khối… Từ đó Nhà nước dự báo, đưa ra những quy hoạch sản xuất và thông tin cho người dân biết. Nghiên cứu các cơ chế, chính sách có lợi cho doanh nghiệp, có lợi cho nông dân hoặc những cơ chế chính sách tạo môi trường pháp lý cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho doanh nghiệp. Nhà nước phải có giải pháp đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, đào tạo nông dân một cách thiết thực; đồng thời chỉ đạo tổ chức thực hiện trên từng địa bàn cụ thể…
PV: Trân trọng cảm ơn bà!
Bảo Chi (lược ghi)