Hoạt động truyền thông KH&CN là động lực, điều kiện tiên quyết tạo sự thành công trong việc đưa các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào cuộc sống; truyền thông KH&CN không chỉ đơn giản là việc các doanh nghiệp nói nhiều hơn về công việc của họ hoặc tạo ra các sự kiện khoa học mà còn mang đến sự ủng hộ của công chúng cho hoạt động KH&CN…
Đó là ý kiến của các báo cáo viên, đại biểu tham dự Hội thảo Đẩy mạnh hoạt động truyền thông về Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo KH,CN&ĐMST) do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN (STC), Bộ KH&CN tổ chức ngày 20/12, tại Hà Nội.
Hội thảo được tổ chức nhằm nêu bật các cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động KH,CN&ĐMST và những kết quả nổi bật của hoạt động ĐMST thông qua nghiên cứu KH&CN tại Việt Nam; khẳng định vị trí, vai trò của truyền thông KH,CN&ĐMST trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động này thời gian tới.
Vai trò then chốt
Theo PGS.TS. Nguyễn Thành Lợi – Tổng Biên tập Tạp chí Người làm báo, Hội Nhà báo Việt Nam, hoạt động truyền thông KH&CN tại các nước phát triển rất được coi trọng, bởi nó là động lực, điều kiện tiên quyết tạo sự thành công trong việc đưa các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào cuộc sống. Việc tăng cường truyền thông, phổ biến tri thức KH&CN sẽ góp phần nâng cao dân trí phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Thông qua truyền thông, giúp công chúng và các cơ quan quản lý có thêm nhiều thông tin chân xác hơn về khoa học, công nghệ, phục vụ nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại. Hoạt động này cũng tạo nguồn lực cho quá trình hoạch định chủ trương, chính sách. Nhiều thông tin KH&CN đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết, hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới. Đặc biệt, thông tin về khoa học tự nhiên cũng góp phần tạo luận cứ cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, tạo cơ sở cho quá trình tiếp thu và làm chủ công nghệ mới. Qua thông tin khoa học đăng tải trên các phương tiện truyền thông, nhiều ngành khoa học và công nghệ gắn bó hơn với sản xuất và đời sống, trong đó, nhiều thành tựu KH&CN mới đã được ứng dụng, góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao nǎng suất, chất lượng và hiệu quả trong các ngành sản xuất nông nghiêp, y tế, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, xây dựng, nǎng lượng, dầu khí, hành tiêu dùng, hàng xuất khẩu..., xây dựng và củng cố quốc phòng - an ninh.
Đồng thời, truyền thông KH&CN có vai trò tham mưu, tư vấn, phản biện cho các chủ trương, chính sách góp phần bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Nhờ đó, các quan điểm, chủ trương, chính sách về phát triển bền vững ngày càng có chất lượng hơn, sát hợp với thực tiễn cuộc sống hơn.
PGS.TS. Nguyễn Thành Lợi, Tổng Biên tập Tạp chí Người làm báo, Hội Nhà báo Việt Nam nhấn mạnh vai trò của truyền thông KH&CN trong bối cảnh CMCN 4.0
Cũng theo PGS.TS. Nguyễn Thành Lợi, truyền thông KH&CN giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra những mục tiêu và giải pháp phát triển phù hợp với tình hình thực tế và có tính khả thi. Đồng thời, góp phần giảm thiểu chi phí về thời gian và tiền bạc cho quá trình hoạch định chủ trương, chính sách. Thông tin khoa học tạo điều kiện mở rộng dân chủ, tạo sự đồng thuận trong quá trình hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với đó, giúp các nhà hoạch định chính sách đánh giá khách quan tác động chính sách. Để xây dựng một chính sách tốt, các nhà hoạch định chính sách cũng cần phân tích, dự báo những tác động tích cực và tiêu cực của từng phương án chính sách đối với các đối tượng chịu tác động của chính sách, đồng thời dự báo, so sánh lợi ích, chi phí của các phương án chính sách nhằm cung cấp cơ sở để lựa chọn phương án chính sách tối ưu.
Theo TS.Trần Quang Tuấn – Giám đốc STC, hoạt động truyền thông KH,CN&ĐMST ngày càng có vai trò quan trọng và đã được khẳng định trong nhiều Nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật như Nghị quyết 20 (khóa XI), Nghị quyết 05 (khóa XII), Nghị quyết 06 (khóa XII)…; Luật KH&CN năm 2013 (điều 48); Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 – 2020 (Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ); Luật chuyển giao công nghệ (sửa đổi) năm 2017; Nghị định 95/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ KH&CN.
"Khảo sát từ STC gần đây cho thấy, các doanh nghiệp hiện đang sử dụng các kênh truyền thông để đăng tải sản phẩm truyền thông gồm tin, bài trên website của đơn vị (87,7%), báo điện tử (69,9%), đài truyền hình (47,9%), báo in (28,8%), các phương tiện truyền thông khác như đài phát thanh, tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước có tỉ lệ thấp hơn. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp cũng đang sử dụng một số kênh truyền thông mới như mạng xã hội, các trang wordpress, blogspot,… của đơn vị", ông Trần Quang Tuấn cho biết.
TS.Trần Quang Tuấn, Giám đốc STC phát biểu tại Hội thảo
Hiệu quả từ thực tiễn
Tại Hội thảo, PGS.TS. Trần Quốc Thắng, Trưởng Ban Giám sát Dự án Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN (FIRST) đã có những chia sẻ về kết quả đẩy mạnh ĐMST thông qua nghiên cứu KH&CN, nhìn từ Dự án FIRST và đề cập đến tác động của hoạt động truyền thông KH&CN trong việc cung cấp, chuyển tải thông tin của Dự án đến các đối tượng thụ hưởng. Theo đó, Bộ KH&CN coi doanh nghiệp là trung tâm của hoạt động ĐMST và đã xây dựng nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực KH&CN. Dự án FIRST là một điển hình.
Chia sẻ về cách tiếp cận của FIRST về ĐMST, ông Trần Quốc Thắng cho biết, một cách hiểu ngắn gọn về ĐMST đó là quá trình/chuỗi hoạt động để “biến tri thức thành tiền, hoặc rộng hơn là các giá trị cho xã hội”. Đây không nhất thiết là một quá trình tuyến tính và tuần tự từ ý tưởng đến thị trường mà hoàn toàn có thể rút ngắn để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Với kỳ vọng từ Bộ KH&CN và Ngân hàng Thế giới, Dự án FIRST đã lấy trọng tâm là liên kết, lan tỏa, thực hiện vai trò “bà đỡ”, “tạo cú hích” để liên kết, tạo nên chuỗi hoạt động ĐMST. Cụ thể, tài trợ cho các dự án thu hút chuyên gia giỏi nước ngoài và chuyên gia người Việt ở nước ngoài; tài trợ 16 dự án hỗ trợ tự chủ và tiếp cận thị trường cho một số tổ chức KH&CN công lập, tạo “cú hích” và đầu tư “đến ngưỡng” để tổ chức KH&CN đủ năng lực tự chủ bền vững. Đồng thời, tài trợ cho 11 nhóm hợp tác để thúc đẩy liên kết giữa viện/trường với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (doanh nghiệp định vị thị trường cho sản phẩm), liên kết với nhà khoa học để hoàn thiện công nghệ, chuẩn hóa dây chuyền, sản xuất thử nghiệm chất lượng sản phẩm.
Dự án FIRST sau 5 năm triển khai đã góp phần lan tỏa tinh thần và tính hữu cơ trong hợp tác giữa doanh nghiệp với viện/trường để tạo ra các sản phẩm có hàm lượng công nghệ được thị trường đón nhận; tinh thần dấn thân, chấp nhận mạo hiểm của doanh nghiệp để đầu tư cho R&D, và mở rộng thị trường.
Hoạt động truyền thông KH&CN thời gian qua đã góp phần lan tỏa thông điệp của Bộ KH&CN và cơ quan nhà nước: đồng hành cùng doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp vào trung tâm của hệ thống ĐMST, chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp, giải phóng sức sáng tạo của các tổ chức KH&CN, thu hút các chuyên gia giỏi KH&CN quốc tế và người Việt ở nước ngoài. Tất cả để thúc đẩy hoạt động ĐMST cho Việt Nam.
Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất thiết bị y học và vật liệu sinh học, Công ty CP Nhà máy thiết bị y học và vật liệu sinh học (MEDEP) rất chú trọng đến công tác truyền thông để đưa các kết quả nghiên cứu đến với công chúng, tiếp cận với đời sống, sản xuất. Theo bà Cao Thị Vân Điểm,Phó Tổng Giám đốc MEDEP, nhờ sự đầu tư của Nhà nước (Chương trình KC10, Dự án FIRST,…), MEDEP đã làm chủ được quy trình công nghệ sản xuất thủy tinh thể nhân tạo đạt tiêu chuẩn quốc tế; làm chủ được đồng bộ các qui trình công nghệ sản xuất chỉ khâu phẫu thuật kháng khuẩn Nano bạc từ khâu chế tạo chất kháng khuẩn nano đến các khâu phủ chất kháng khuẩn nano lên sợi chỉ khâu, dập kim vào chỉ đóng gói và tiệt trùng sản phẩm. Việc tự nghiên cứu và sản xuất chất kháng khuẩn Nano bạc với chi phí chưa bằng 1/10 so với nhập khẩu giúp làm giảm giá thành và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
Bà Cao Thị Vân Điểm, Phó Tổng Giám đốc Công ty MEDEP chia sẻ về hoạt động truyền thông tại đơn vị
Hoạt động truyền thông KH&CN đã giúp ích rất nhiều cho đơn vị trong quá trình tìm kiếm thông tin, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Theo bà Điểm, truyền thông có vai trò giới thiệu các cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về phát triển KH&CN; thành tựu nổi bật của khoa học trong nước và thế giới, điển hình là những ứng dụng KH&CN góp phần tăng trưởng phát triển kinh tế- xã hội. Nhờ đó, doanh nghiệp biết và tham gia. Hoạt động truyền thông KH&CN không chỉ đơn giản là việc các doanh nghiệp nói nhiều hơn về công việc của họ hoặc tạo ra các sự kiện khoa học (giới thiệu công nghệ của mình), mà nó còn mang đến sự ủng hộ của công chúng cho hoạt động KH&CN. Đồng thời, hoạt động này còn góp phần đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào cuộc sống và sản xuất kinh doanh.
“Nếu không nắm bắt được thông tin từ truyền thông, chúng tôi sẽ không biết được các kênh đầu tư từ Nhà nước và không tham gia vào thị trường KH&CN được”, bà Cao Thị Vân Điểm chia sẻ.
Tại Hội thảo, các đại biểu đã chia sẻ, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động truyền thông về KH,CN&ĐMST trong bối cảnh công nghiệp 4.0. Theo đó, để truyền thông đúng, trúng và đạt hiệu quả, khi tiếp cận thông tin, các phóng viên, nhà báo cần có hiểu biết chuyên sâu về KH,CN&ĐMST để chuyển tải những nội dung vốn khô khan trở thành vấn đề dễ hiểu, hấp dẫn với độc giả; cần tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ truyền thông giỏi cả chuyên môn và nghiệp vụ báo chí; có kinh phí đào tạo nghiệp vụ cho phóng viên về KH&CN, đào tạo nghiệp vụ truyền thông cho cán bộ khoa học, thậm chí có cả những khóa đào tạo trong nước và nước ngoài; chú trọng đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở truyền thông chuyên nghiệp.
Cơ quan quản lý KH&CN cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tấn, báo chí xây dựng những chương trình, hoạt động thu hút được sự quan tâm của toàn xã hội. Khi nhận thức của toàn xã hội về KH,CN&ĐMST thay đổi, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của KH,CN&ĐMST thực sự là một trong những yếu tố quyết định của quá trình phát triển đất nước, nhất là trong bối cảnh cách mạng 4.0 hiện nay.
Các cơ quan báo chí cần chú trọng và tăng cường các hoạt động truyền thông KH,CN&ĐMST trên tất cả các kênh: phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện tử, tăng cường mạng lưới các websites về thông tin KH&CN. Các đài phát thanh, truyền hình Trung ương nên có các kênh khoa học hấp dẫn phát sóng liên tục 24 giờ mỗi ngày… Cần xây dựng các trung tâm truyền thông để các nhà khoa học giao lưu, trao đổi học thuật, tập huấn về công tác truyền thông, chủ động kết nối với giới truyền thông.
Trong kỷ nguyên 4.0, truyền thông KH,CN&ĐMST trở thành sức mạnh và là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển các quốc gia dân tộc cũng như sự tiến bộ xã hội. Khác với trước đây, vai trò của truyền thông KH,CN&ĐMST không chỉ giới hạn ở lĩnh vực giáo dục nâng cao trình độ dân trí mà còn mở rộng ra mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; không chỉ giới hạn ở tầng lớp tinh hoa mà còn thẩm thấu vào mọi giai tầng trong xã hội. Với nước ta hiện nay, truyền thông KH,CN&ĐMST vừa là nguồn lực, vừa là môi trường, điều kiện để đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới kỹ thuật và công nghệ; đổi mới sáng tạo; đổi mới cơ chế, thể chế quản trị quốc gia, quản lý phát triển xã hội,… Đặc biệt, thông tin KH,CN&ĐMST là cơ sở, căn cứ quan trọng cho việc hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo cho các quyết sách phù hợp với quy luật khách quan, với mục tiêu chung của Đảng, Nhà nước và có hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn.
Bài, ảnh: Quỳnh Chi