Các nhà quản lý, các nhà khoa học đánh giá cao kết quả thực hiện của các đề tài thuộc Chương trình KH&CN cấp Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và môi trường giai đoạn 2016 – 2020, đặc biệt nhấn mạnh nhiều công trình có tính ứng dụng cao.
Ngày 25/10, Văn Phòng Chương trình khoa học và công nghệ (KH&CN) cấp Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và môi trường (TN&MT) đã tổ chức Hội nghị sơ kết, đánh giá tình hình triển khai thực hiện Chương trình KH&CN cấp Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), quản lý TN&MT giai đoạn 2016 - 2020.
Chia sẻ về các kết quả của Chương trình, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân cho biết, đến nay, Chương trình đã có nhiều sản phẩm khoa học, công nghệ của các đề tài có trình độ khoa học cao, tiệm cận được với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và thực hiện chiến lược chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể kể đến những công trình nghiên cứu có tính ứng dụng cao, phù hợp thực tiễn, góp phần bảo vệ môi trường, ứng phó BĐKH như: Thiết bị tách ẩm từ không khí công suất 10lít/ngày phục vụ nhu cầu sinh hoạt người dân; Bước đầu nghiên cứu chế tạo bê tông rỗng thoát nước ứng dụng trong công trình hạ tầng kỹ thuật ứng phó BĐKH; tài chính cho BĐKH và một số gợi ý chính sách tại Việt Nam; Đánh giá khả năng chịu hạn của một số giống ngô lai bằng phương pháp gây hạn nhân tạo trong điều kiệm nhà lưới; Xây dựng bộ chỉ tiêu xác định các đợt lạnh bất thường trong mùa sông trên khu vực miền núi phía Bắc…
Đồng thời, thông qua hoạt động nghiên cứu KH&CN, Chương trình đã mang lại những hiệu quả tích cực được ghi nhận như: góp phần giải quyết vấn đề đào tạo đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau; các đề tài đã đăng 13 bài báo trên tạo chí khoa học trong nước và 05 bài báo trên tạp chí quốc tế; tăng cường năng lực của các đơn vị trong việc quản lý, triển khai các chương trình KH&CN cấp quốc gia; tạo ra được mạng lưới các đơn vị nghiên cứu đa ngành, liên ngành đối với các lĩnh vực liên quan và bước đầu tạo nên cơ chế hợp tác tiềm năng, có thể huy động trong tương lai để giải quyết các vấn đề lớn, cấp bách, có tính liên ngành, hỗ trợ công tác quản lý nhà nước trong vấn đề sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với BĐKH.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân nhấn mạnh, Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động mạnh mẽ nhất do BĐKH, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo Kịch bản BĐKH và nước biển dâng do Bộ TN&MT công bố năm 2016 cho thấy, vào cuối thế kỷ 21, dự kiến nhiệt độ phía Bắc tăng từ 3,3 - 4,0oC và phía Nam 3,0 - 3,5oC, kéo theo đó mực nước biển có thể dâng lên khoảng 1m. Khi đó hậu quả là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập 38,9% diện tích, riêng TP. Hồ Chí Minh ngập 17,8% diện tích; các tỉnh ven biển ở Đồng bằng sông Hồng ngập 16,8%; các tỉnh miền Trung là 1,47%.
Bên cạnh những nguy cơ, thách thức do BĐKH đã và sẽ tác động đối với sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai, chúng ta còn phải quan tâm đến nhiều thách thức trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Trong đó đánh giá tiềm năng, giá trị của một số tài nguyên quan trọng trên đất liền và biển, hải đảo; từ đó đề xuất các định hướng quy hoạch, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia.
Để giải quyết các vấn đề nêu trên, trong gần 03 năm qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cùng Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương, các tổ chức KH&CN trên phạm vi cả nước tổ chức triển khai Chương trình KH&CN cấp quốc gia “KH&CN ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT giai đoạn 2016-2020”, mã số BĐKH/16-20.
Toàn cảnh Hội nghị
Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Chương trình, TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Chánh Văn phòng Chương trình cho biết, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt 38 đề tài đang được triển khai thực hiện, đang tổ chức tuyển chọn, phê duyệt bổ sung 04 đề tài theo mục tiêu của Chương trình. Các đề tài nghiên cứu tập trung vào 03 nhóm nội dung chính của Chương trình. Sản phẩm của các đề tài bước đầu đã đề xuất được chính sách, công nghệ, giải pháp trong ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT đặc biệt là công nghệ trong sản xuất nông nghiệp; thử nghiệm mô hình trình diễn lồng ghép ứng phó với biến đổi khí hậu như mô hình cộng đồng làng xã các-bon thấp, chống chịu cao; mô hình phát triển kinh tế ứng phó với xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long…
Hàng loạt các bài báo đã và sẽ được công bố trên các tạp chí khoa học uy tín trên thế giới và trong nước. Chỉ tính riêng 30 đề tài đã được phê duyệt, sau khi kết thúc sẽ có 40 bài báo được chấp nhận đăng trên tạp chí quốc tế, 101 bài báo đăng trên tạp chí trong nước, 02 sách chuyên khảo. Đến nay, các đề tài đã đăng 13 bài báo trên tạo chí khoa học trong nước và 05 bài báo trên tạp chí quốc tế.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã được nghe các báo cáo tham luận về kết quả tiêu biểu đạt được của một số đề tài thuộc Chương trình, như: Báo cáo tham luận “Thiết bị tách ẩm từ không khí công suất 10 lít/ ngày phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân” do GS.TS. Phan Đình Tuấn, Hiệu trưởng Trường Đại học TN&MT TP Hồ Chí Minh trình bày; Báo cáo tham luận “Bước đầu nghiên cứu chế tạo bê tông rỗng thoát nước ứng dụng trong công trình hạ tầng kỹ thuật ứng phó với BĐKH” do GS.TS. Phan Quang Minh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Xây dựng trình bày; Báo cáo tham luận “Tài chính cho BĐKH và một số gợi ý chính sách tại Việt Nam” do PGS.TS Đinh Đức Trường, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân trình bày; Báo cáo tham luận “Đánh giá khả năng chịu hạn của một số giống ngô lai bằng phương pháp gây hạn nhân tạo trong điều kiện nhà lưới” do TS. Phạm Thị Thanh Hương, Sở KH&CN tỉnh Thanh Hóa trình bày; Báo cáo tham luận “Xây dựng bộ chỉ tiêu xác định các đợt lạnh bất thường trong mùa đông trên khu vực miền núi phía Bắc” do TS. Võ Văn Hòa, Đài Khí tượng thủy văn khu vực Đồng bằng Bắc Bộ trình bày…
Phát biểu kết luận tại Hội nghị, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân mong muốn các chủ nhiệm đề tài bám sát tiến độ thực hiện đề tài và hoàn thành các đề tài đạt mục tiêu của Chương trình; đồng thời, cần đẩy mạnh chuyển giao và nhân rộng việc áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tế, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế, xã hội, ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Tin, ảnh: Diệu Huyền