Với mục tiêu “Làm khoa học để phục vụ dân sinh”, các cán bộ của Trung tâm Sinh học thực nghiệm, Viện ứng dụng công nghệ- Bộ KH&CN đã tạo ra những sản phẩm thiết thực gắn liền với đời sống dân sinh như viên nang, viên nén, cốm tảo Spirulina, chế phẩm vi sinh vật xử lý chất thải hữu cơ, bột dinh dưỡng uống liền…
Để ghi nhận và tôn vinh những đóng góp lớn lao của tập thể cán bộ các nhà khoa học nữ tại Trung tâm, Mới đây, tại Hà Nội, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức lễ trao giải thưởng Kovalevskaia năm 2012 cho tập thể các nhà khoa học nữ của Trung tâm.
Nhiều thành tựu…
TS. Hương Sơn, Giám đốc Trung tâm cho biết, với 17 trên tổng số 22 cán bộ là nữ, tập thể nữ cán bộ nghiên cứu liên tục đảm nhận 05 đề tài cấp Nhà nước, 31 nhiệm vụ cấp Bộ, 30 đề tài cấp Viện, 03 nhiệm vụ được tài trợ của các quỹ,... Hầu hết các đề tài đều do các nữ cán bộ của đơn vị chịu trách nhiệm thực hiện.
Cụ thể, từ năm 1991, Trung tâm thực hiện đề tài cấp Nhà nước "Nghiên cứu công nghệ sản xuất các chế phẩm giàu dinh dưỡng và giàu hoạt tính sinh học từ nguồn vi tảo phục vụ cho dinh dưỡng người và động vật" bước đầu đã chế thử sản phẩm viên nén, cốm Lina từ tảo Spirulina và thức ăn tổng hợp cho ấu trùng tôm từ vi tảo cho kết quả thử nghiệm tốt. Kết quả đề tài đã được Hội đồng KHCN nghiệm thu đánh giá đạt loại xuất sắc và đạt giải thưởng VIFOTEC dành cho các công nghệ ưu tiên năm 1996.
Kế thừa các kết quả nghiên cứu đã đạt được, năm 2008 Trung tâm tiếp tục thực hiện Dự án Sản xuất thử nghiệm "Sản xuất một số sản phẩm (viên nén, viên nang, cốm) giàu dinh dưỡng và giàu hoạt tính sinh học từ tảo Spirulina” nhằm triển khai kết quả nghiên cứu đưa sản phẩm ra thị trường. Cả 3 sản phẩm viên nén, viên nang và cốm tảo đều được đăng kí chất lượng tại Cục An toàn vệ sinh thực phẩm - Bộ y tế.
Trong đó đặc biệt phải kể đến sản phẩm cốm dinh dưỡng WELSPI là sản phẩm dành cho trẻ em độc đáo trên thị trường chế biến từ tảo Spirulina. Kết quả tiếp thị và bán hàng cho thấy đây là sản phẩm có tiềm năng phát triển tốt, phản hồi tiêu dùng cho thấy trẻ đều thích sử dụng sản phẩm và sản phẩm có tác dụng cải thiện tiêu hóa, giúp trẻ tăng cân, tăng sức đề kháng. Bước đầu công tác triển khai bán hàng đã đạt doanh thu trên 350 triệu đồng.
Trong lĩnh vực công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, năm 2006 Trung tâm Sinh học Thực nghiệm đã thực hiện đề tài trọng điểm cấp Bộ "Nghiên cứu trồng cây Nopal trên các vùng đất cát khô hạn làm cây che phủ đất, làm thức ăn gia súc và bước đầu xác định khả năng làm rau cho người" trở thành đơn vị nghiên cứu đầu tiên nhập nội cây xương rồng Nopal từ Mêhicô, nhân giống in vitro thành công với số lượng cây giống khá lớn và triển khai trồng thử nghiệm cây Nopal tại Ninh Phước (Ninh Thuận), Cam Lâm (Khánh Hòa - vùng IV Hải quân), Đồng Phú (Bình Phước), Phú Vang (Thừa Thiên Huế) và đảo Trường Sa - tạo nguồn cây giống phục vụ công tác chống sa mạc hóa, xói mòn và cung cấp rau quả cho các vùng đất khô cằn. Kết quả "Nghiên cứu quy trình nhân nhanh cây xương rồng Nopal bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào" đã được tặng cúp vàng Techmart Việt Nam năm 2007.
Một hướng nghiên cứu hợp tác có hiệu quả do Trung tâm thực hiện với Hàn Quốc thông qua các đề tài nghị định thư về công nghệ bảo quản màng là một trong những công nghệ mới của phía bạn trong lĩnh vực bảo quản rau quả tươi thân thiện với môi trường, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng. Kết quả của đề tài đã được ứng dụng thực tế tại Công ty xuất nhập khẩu Bắc Giang để bảo quản vải và Công ty xuất nhập khẩu hoa quả Sài gòn bảo quản xoài cát Hoà Lộc giúp các đơn vị kéo dài được thời gian bảo quản quả đảm bảo chất lượng xuất khẩu.
Mới đây nhất, năm 2011, Trung tâm đã đăng kí và được giao thực hiện nhiệm vụ cấp Nhà nước "Khai thác và phát triển nguồn gen Lan Kim Tuyến (Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl.) và Bạch Tật Lê (Tribulus terrestris L.) làm nguyên liệu sản xuất thuốc, kết quả bước đầu đã nhân giống in vitro thành công cây dược liệu Lan Kim tuyến thuộc sách đỏ Việt Nam - giúp Trung tâm Sinh học Thực nghiệm một lần nữa trở thành đơn vị nhân giống và trồng thành công Lan Kim tuyến bằng kĩ thuật nuôi cấy mô tế bào thực vật. Hiện nay đề tài đang tiến hành phát triển vùng trồng nguồn gen cây dược liệu Lan Kim Tuyến tại Lào Cai.
Nhằm tiếp cận với nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng cho các sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên, gần đây Trung tâm đã tập trung vào hướng nghiên cứu tạo các chế phẩm sinh học phục vụ sức khỏe con người như: nghiên cứu tạo sản phẩm đường không năng lượng dành cho bệnh nhân tiểu đường được tách chiết từ quả La Hán, chế phẩm giàu probiotic từ cám gạo bổ sung vào thực phẩm giúp cải thiện hệ tiêu hoá, bột chiết chè xanh giàu polyphenol hay nước uống từ nấm Kombucha có tác dụng ngăn ngừa lão hóa... Từ những kết quả thu được, trong thời gian tới Trung tâm có định hướng phát triển các sản phẩm thử nghiệm thành hàng hoá, chuẩn bị cho việc triển khai thực hiện nghị định 115, hướng đến việc phát triển sản phẩm đem lại doanh thu trực tiếp cho đơn vị.
Thương mại hóa, tạo nguồn thu
Trong quá trình hoạt động, Trung tâm cũng đã thực hiện nhiều Hợp đồng dịch vụ khoa học kĩ thuật nhằm tăng nguồn thu cho Trung tâm cũng như góp phần cải thiện thu nhập cho cán bộ. Đặc biệt là việc các cán bộ nữ của Trung tâm đã và đang tích cực triển khai phát triển thị trường cho các sản phẩm của mình, tạo thêm một kênh tăng thu nhập cho cán bộ dựa trên thành quả của chính những nghiên cứu có được từ Trung tâm.
Từ những kết quả và kinh nghiệm có được, Trung tâm đã được nhiều đơn vị tín nhiệm kí Hợp đồng chuyển giao công nghệ: Trung tâm ứng dụng TBKH Hải Dương năm 1999, Sở KHCN&MT Vĩnh Phúc năm 2000, Sở KHCN Lai Châu năm 2008, Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN Cao Bằng năm 2009,... Công tác chuyển giao cũng do hầu hết các cán bộ nữ của Trung tâm đảm nhận, mặc dù địa bàn thực hiện nhiệm vụ chuyển giao cần phải di chuyển xa nhà nhưng chị em đều nỗ lực hết sức trong việc hỗ trợ các đơn vị tiếp nhận công nghệ, xây dựng mô hình phòng thí nghiệm và đào tạo thành thạo kĩ thuật nhân giống in vitro một số giống cây mới hoặc có giá trị kinh tế như chuối, mía, dứa, các loại hoa ly, cúc, hoa lan...
Bên cạnh các Hợp đồng chuyển giao công nghệ, với mục tiêu tăng doanh thu cho đơn vị từ các nguồn thu dịch vụ, bắt đầu từ năm 2008, Trung tâm đã xây dựng Phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17025 (Vilas 303) nhằm tăng mức độ tin cậy cho khách hàng sử dụng các dịch vụ phân tích đánh giá chất lượng lượng môi trường, từ đó số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ phân tích tại Trung tâm tăng đáng kể so với trước đây.
Tuy nhiên, TS. Hương Sơn cho biết, thành công này có được không thể không nói đến sự chỉ đạo sát sao của Bộ KH&CN, của Viện ứng dụng công nghệ để Trung tâm có thể thực hiện và triển khai được các ý tưởng khoa học, tạo ra các sản phẩm phục vụ cuộc sống và sự nỗ lực không ngừng vượt qua bao khó khăn vất vả của phụ nữ làm công tác nghiên cứu khoa học của Trung tâm, họ đã đóng góp những viên gạch nhỏ bé của mình để xây lên lâu đài kết quả ngày hôm nay, bởi mỗi một đề tài thành công chính là niềm vui cho cán bộ phụ nữ của Trung tâm.
“Những người làm khoa học, đặc biệt là phụ nữ cũng có những thuận lợi và một số khó khăn, thuận lợi ở đây là phụ nữ có sự khéo léo, tỷ mỉ và cẩn thận, chúng tôi cũng nhận được nhiều sự động viên khuyến khích của các đồng nghiệp, gia đình và xã hội, vui nhất là những đề tài nghiên cứu nghiệm thu đạt được kết quả tốt và có khả năng thương mại hóa hoặc các quy trình có thể sản xuất thử nghiệm tại các nhà máy và cho đến này chúng tôi đã có một số sản phẩm đã có mặt trên thị trường phục vụ thiệt thực cho đời sống”, TS, Hương Sơn chia sẻ.
Bài, ảnh: Q. Hoa– Phương Hoàn