Đây là sản phẩm của đề tài mang mã số KC.07.18/11-15 do Ths Vũ Kim Thoa – Viện cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch làm chủ nhiệm vừa được nghiệm thu sáng 24/6, tại Hà Nội. Đề tài thuộc Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sau thu hoạch” KC07/11-15.
Hiện nay, nhu cầu sử dụng chế phẩm sinh học Sulforaphane, Indole3-carbinol trên thế giới cũng như tại Việt Nam ngày càng trở nên cần thiết và tăng do loại chế phẩm này được đánh giá là một loại thực phẩm chức năng có nhiều tính chất có lợi cho sức khỏe.
Sulforaphane có tác dụng chủ yếu là hỗ trợ phòng và điều trị ung thư, trong đó có phòng chống viên loét dạ dày, tá tràng. Ngoài ra còn có một số tác dụng có lợi cho sức khỏe như giúp tăng cường miễn dịch, phòng và điều trị bệnh tim mạch, chống viêm đường hô hấp, chống viêm khớp, chống oxy hóa và giải độc tố gây ung thư.
Các sản phẩm Indole3-carbinol có nhiều lợi ích cho sức khỏe tương tự như giúp hỗ trợ tăng cường miễn dịch, ngăn ngừa ung thư, ức chế gây đột biến; có tác dụng kháng estrogen, có lợi cho sức khỏe của phụ nữ có tuổi.
Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh ung thư, viêm nhiễm kể cả viêm loét và ung thư dạ dày do vi khuẩn H.pylori gâ ra đang gia tăng nhanh chóng. Các loại thuốc và thực phẩm chức năng hỗ trợ điều trị ung thư hầu như phải nhập khẩu từ nước ngoài hoặc do các hãng dược nước ngoài sản xuất và phân phối. Do đó, việc nghiên cứi để sản xuất ra những sản phẩm tương tự nước ngoài từ nguồn nguyên liệu trong nước, từ công nghệ tạo lập sẽ mang lại lợi ích nhiều mặt về kinh tế và xã hội.
Ths Vũ Kim Thoa cho biết: mục tiêu của đề tài nhằm có được công nghệ tách chiết và tinh sạch hoạt chất sinh học Sulforaphane, Indole3-carbinol ứng dụng sản xuất thực phẩm chức năng dùng cho người viêm loét dạ dày bởi vi khuẩn.
Sau thời gian nghiên cứu, nhóm thực hiện đề tài đã tiếp cận được công nghệ thành công trong việc sử dụng sóng siêu âm để tách chiết hoạt chất sinh học Sulforaphane, Indole3-carbinol quy mô phòng thí nghiệm và quy mô pi-lot. Công nghệ này đã được nhiều nước đánh giá có nhiều ưu điểm và lợi thế.
Bên cạnh đó, đề tài cũng đã xây dựng được quy trình sản xuất chế phẩm chứa hoạt chất sinh học Sulforaphane, Indole3-carbinol quy mô phòng thí nghiệm và quy mô pi-lot. Các quy trình này có thể hoàn thiện và nâng cấp phục vụ cho sản xuất ở quy mô công nghiệp.
Ngoài ra, đề tài xác định loại nguyên liệu thích hợp nhất dùng cho tách chiết Sulforaphane, Indole3-carbinol; xác định được quy trình công nghệ xử lý bảo quản, chế biến nguyên liệu đầu vào; xác định quy trình gia công nguyên liệu trước khi tách chiết; xây dựng quy trình tách chiết quy mô nhỏ phòng thí nghiệm và quy trình nâng cấp cho quy mô lớn, cho tới khâu ứng dụng sản phẩm cuối cùng để sản xuất thực phẩm chức năng.
Sản phẩm của đề tài có thể được ứng dụng để sản xuất chế phẩm chứa hoạt chất sinh học Sulforaphane, Indole3-carbinol tại Việt Nam. Đây là sản phẩm đang có nhu cầu sử dụng nhưng đều phải nhập nội. Giá thành công nghệ và sản phẩm sẽ thấp hơn so với nhập khẩu.
Trong thời gian tới, nhóm thực hiện đề tài mong muốn tiếp tục được nghiên cứu các phương pháp tách chiết, thu nhận, làm sạch dịch tách chiết, điều kiện bảo quản thích hợp. Nghiên cứu mở rộng quy trình sản xuất chế phẩm chứa hoạt chất SFN và 13C để có thể ứng dụng vào sản xuất ở quy mô công nghiệp.
Với những kết quả đạt được, Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước đã tiến hành nghiệm thu đề tài và đánh giá đạt loại khá. Hội đồng cũng đề nghị đề tài tiếp tục được đưa vào sản xuất thử nghiệm trong thời gian tới..
Tin, ảnh: Ánh Tuyết