Chuyển giao công nghệ (CGCN) được đánh giá là con đường ngắn nhất để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Đây là nhận định của ông Đỗ Hoài Nam – Vụ trưởng Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ - Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN).
Công tác CGCN trong thời gian qua tuy đánh giá là chưa thực sự đáp ứng nhu cầu nhưng công tác này đã đạt được một số kết quả nhất định. Theo ông Đỗ Hoài Nam, Luật CGCN cũng đã chỉ ra rằng cần tập trung vào thu hút công nghệ cao, công nghệ mới. Luật cũng dã tạo ra hành lang pháp lý khuyến khích việc thu hút thúc đẩy và các hoạt động CGCN tại Việt Nam ở cả 3 luồng là CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam, CGCN trong nước và CGCN từ Việt Nam ra nước ngoài.
Việt Nam đã tập trung vào 4 hướng công nghệ cao, chủ chốt theo hướng ưu tiên của Đảng và Nhà nước, đó là công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin viễn thông, công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.
Với những định hướng đó, trong thời gian qua các lĩnh vực trên đã có những kết quả đáng ghi nhận. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông, hàng loạt công nghệ hiện đại đã được chuyển giao và ứng dụng thành công như mạng viễn thông số hóa, mạng thế hệ sau (NGN), mạng cáp quang, công nghệ GSM và CDMA. Đặc biệt là công nghệ 3G đã được 4 doanh nghiệp viễn thông bắt đầu đưa vào áp dụng từ năm 2009.
Một số công nghệ mới như WiMax và mobile TV đang được tiếp tục thử nghiệm để đưa vào ứng dụng. Số lượng doanh nghiệp ứng dụng CNTT vào kinh doanh, vào thương mại điện tử tăng nhanh. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã triển khai thành công một số hoạt động CGCN trong lĩnh vực CNTT và truyền thông với 2 cường quốc lớn là Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Trong lĩnh vực công nghệ sinh học (CNSH), mỗi năm Việt Nam thu được hàng chục tỉ đồng từ việc chuyển giao các thành tựu khoa học trong lĩnh vực CNSH. Viện CNSH và các tổ chức, doanh nghiệp trong nước khác đã phát triển, xây dựng và chuyển giao thành công các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực CNSH như công nghệ gen, công nghệ protein và vắc-xin tái tổ hợp.
Trong lĩnh vực công nghệ tự động hóa, các hoạt động CGCN trong nước cũng đã diễn ra khá sôi động. Điển hình có sáng chế Robot phun thuốc sinh học cho cây trồng trong nhà kính, công nghệ rơ le bảo vệ hệ thống điện, sản xuất thiết bị y tế kỹ thuật số (liên doanh với Hàn Quốc) với tổng mức đầu tư 8 triệu USD. Ứng dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, Viện Khoa học - Công nghệ Tàu thủy phối hợp các công ty đóng tàu trong nước đã xuất xưởng không ít sản phẩm mới có chất lượng.
Một số loại vật liệu mới đã được chuyển giao và ứng dụng trong các lĩnh vực xây dựng, cơ khí, chế tạo, điện tử ứng dụng, tàu thủy. Những công nghệ vật liệu mới tiêu biểu được ứng dụng và chuyển giao tại Việt nam có thể kể đến: Vật liệu gốm sứ kỹ thuật cao cấp, vật liệu nano, vật liệu polyme compozit,... được ứng dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế quốc dân.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng hiện nay hoạt động CGCN vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, mong muốn thông qua CGCN tiếp cận được những công nghệ cao, công nghệ mới chưa nhiều. Nhiều công nghệ được chuyển giao qua con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là công nghệ trung bình hoặc tiên tiến so với thế giới được CGCN vào Việt Nam.
Khó khăn lớn nhất hiện nay là, đối với các công nghệ đã được thương mại hóa và chuyển giao về Việt Nam thì họ chỉ cấp cho doanh nghiệp tại Việt Nam quyền sử dụng công nghệ chứ không theo hình thức mua bán (chuyển cả quyền sở hữu công nghệ) nên thực ra chừng nào doanh nghiệp tại Việt Nam còn sản xuất sản phẩm có áp dụng công nghệ được chuyển giao thì chừng đó còn phải thanh toán chi phí cho CGCN, ông Đỗ Hoài Nam nhận định.
Một vấn đề nữa là bản thân chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn chưa thay đổi kịp xu hướng và nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Hiện nay Việt Nam có một quy định là các hợp đồng CGCN thì các bên quyền tự nguyện đăng ký hợp đồng CGCN để hưởng ưu đãi theo quy định pháp luật, nhưng trên thực tế các doanh nghiệp khi thực hiện chuyển giao công nghệ chưa thấy được hưởng các ưu đãi cụ thể nên chưa thực hiện việc đăng ký CGCN. Chế độ báo cáo, thống kê thì quy định chỉ những công nghệ chuyển giao sử dụng ngân sách nhà nước mới phải báo cáo.
Qua quá trình thực hiện Luật CGCN từ 1/7/2007 đến nay cho thấy các công nghệ nằm trong danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao chưa có công nghệ nào được triển khai thực hiện trong thực tiễn và rất nhiều công nghệ trong danh mục khuyến khích chuyển giao thì cũng chưa được quy định cụ thể. Công tác chuyển giao kết quả nghiên cứu từ viện trường vào sản xuất thì chưa được quan tâm đúng mức.
Để công tác CGCN đạt được kết quả cao nhất, mộ trong những vấn đề cần quan tâm trong thời gian tới là cần sửa đổi, bổ sung Luật CGCN, trong đó quy định rõ hơn đối với chuyển giao kết quả R&D vào sản xuất và phương thức quản lý đối với CGCN của từng luồng, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của các tổ chức dịch vụ CGCN,….
Ông Đỗ Hoài Nam cũng cho rằng, truyền thông sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc tuyên truyền để các tổ chức, cá nhân hiểu rõ được vai trò của công nghệ, CGCN trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời thông qua truyền thống các tổ chức, cá nhân sẽ biết rõ quyền hạn, trách nhiệm của mình khi tham gia hoạt động CGCN.