Trong bối cảnh điều kiện khai thác tài nguyên khoáng sản ngày càng khó khăn, việc đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất có vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững của ngành công nghiệp khai thác than, khoáng sản Việt Nam.
Ông Trần Tú Ba – Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam (VINACOMIN) cho biết như trên bên lề Triển lãm quốc tế lần thứ 4 về ngành công nghiệp khai thác và phục hồi tài nguyên khoáng sản tại Việt Nam (Mining Vietnam 2018).
Hiện đại hóa công nghiệp khai thác than, khoáng sản
Trong những năm qua, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, ngành công nghiệp khai thác than, khoáng sản Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, nhiều tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới được đưa vào áp dụng trong sản xuất, đạt nhiều thành công đáng kể.
Trong lĩnh vực công nghệ khai thác hầm lò, các công trình nghiên cứu đã bám theo định hướng nâng cao mức độ cơ giới hóa và hiện đại hóa, áp dụng các công nghệ khai thác hợp lý có sử dụng cơ giới cho các điều kiện vỉa phức tạp, đã nghiên cứu đề xuất được các giải pháp kỹ thuật, công nghệ để nâng cao mức độ cơ giới hóa và hiện đại hóa trong quá trình sản xuất, phát triển cơ giới và hiện đại hóa các mỏ hầm lò nhằm tăng sản lượng khai thác, nâng cao mức độ an toàn và đáp ứng nhu cầu sản lượng ngày càng tăng của ngành.
Một số giải pháp cơ giới hóa khai thác cụ thể đã được áp dụng như áp dụng công nghệ khấu than bằng thiết bị đồng bộ; sử dụng đồng bộ thiết bị giàn khoan, máy xúc, dây chuyền vận tải đồng bộ... Đặc biệt, các công trình triển khai áp dụng công nghệ vào thực tế sản xuất cho kết quả khả quan, mở ra hướng mới trong việc áp dụng công nghệ cơ giới hóa khai thác các vỉa than mỏng và các vỉa than có độ dốc lớn.
Ông Trần Tú Ba đã đưa ra ví dụ về công trình áp dụng công nghệ cơ giới hóa khai thác các vỉa than có độ dày đến 2,0 m dốc thoải đến nghiêng triển khai tại Công ty than Quang Hanh cho kết quả tốt, đạt năng suất cao gấp hơn 3 lần so với trước đây, khi phải sử dụng cột thủy lực đơn khai thác các vỉa than có điều kiện tương tự. Ngoài ra, việc áp dụng công nghệ cũng cho phép giảm khối lượng khấu đá vách, tiết kiệm chi phí, nâng cao mức độ an toàn so với công nghệ đang sử dụng trước đây.
Đối với khai thác lộ thiên, các công trình nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp khoa học và công nghệ khai thác, tổ chức quản lý nhằm nâng cao mức độ cơ giới hóa, hiện đại hóa quá trình sản xuất tại các mỏ than lộ thiên, đồng thời nâng cao hiệu quả và mức độ an toàn các mỏ than lộ thiên công suất lớn khi khai thác xuống sâu. Các mỏ than và khoáng sản lộ thiên đã áp dụng đồng bộ thiết bị cơ giới hóa công suất lớn như máy khoan thủy lực đường kính 230-250mm; các máy xúc dung tích gàu 8-12m3; các ô tô tải trọng 75-120 tấn, vận tải liên tục bằng băng tải...
Nhiều công nghệ mới đã được áp dụng trong lĩnh vực sàng tuyển, chế biến than – khoáng sản. Ví dụ như hệ thống xử lý bùn nước Nhà máy tuyển than – Vàng Danh; hệ thống sàng tuyển than Công ty than Quang Hanh. VINACOMIN đã đưa ra những dây chuyền tuyển than cục trong than don xo Công ty than Uông Bí; dây chuyền tuyển than cục tại Công ty than Nam Mẫu...
Trong lĩnh vực chế biến khoáng sản, các công trình nghiên cứu công nghệ tuyển tận thu các loại quặng sắt, thiếc, chì kẽm từ quặng đuôi hoặc từ bãi thải; tư vấn thiết kế, chuyển giao công nghệ các Nhà máy tuyển quặng bau xit Tân Rai Lâm Đồng, Nhà máy tuyển quặng bau xit Nhân Cơ... cũng cho các kết quả khả quan.
Về nội địa hóa sản phẩm, các nhà khoa học đã nghiên cứu thiết kế và chế tạo được các sản phẩm cơ khí và điện tử như các loại băng tải treo, băng tải co dãn; tời hỗ trợ người đi bộ, tời vô cực vận chuyển người; mônôray kết hợp đầu tàu điêzen; giá khung thủy lực di động; máy chuyển tải, máng cào uốn; một số loại xi lanh thủy lực đường kính lớn, van thủy lực, giàn chống tự hành; hệ thống trục tải giếng đứng; hệ thống quan trắc tập trung mỏ hầm lò với các loại đầu đo khí CH4, khí CO nhằm thay thế thiết bị nhập khẩu.
Ông Trần Tú Ba khẳng định, kết quả các công trình nghiên cứu đã góp phần đẩy mạnh công tác ứng dụng cơ giới hóa, hiện đại hóa trong ngành công nghiệp khai thác than, khoáng sản Việt Nam, tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm cơ khí chế tạo, các sản phẩm điện tử, tự động hóa. Các kết quả nghiên cứu, các sản phẩm khoa học công nghệ đều được thử nghiệm trong thực tế, cho kết quả tốt và được các đơn vị sản xuất đón nhận đưa vào áp dụng trong thực tế.
Khách hàng thăm quan Triển lãm Mining Vietnam 2018
Đẩy mạnh áp dụng KH&CN vào sản xuất
Bên cạnh những kết quả đạt được trong khai thác than thời gian vừa qua, ông Trần Tú Ba cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng, trong tương lai vẫn còn nhiều thách thức, nhiều vấn đề cần giải quyết như vấn đề: khai thác dưới các công trình cần bảo vệ; áp dụng các công nghệ khai thác cơ giới hóa mới phù hợp với điều kiện cụ thể; khai thác than Đồng bằng sông Hồng; tự động hóa sản xuất; vấn đề nội địa hóa sản phẩm; lượng nước ngầm tăng, bờ mỏ cao với cường độ khai thác trên bờ lớn, khai thác theo mùa... Trong giai đoạn tới, cần tập trung nghiên cứu, đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để giải quyết các vấn đề khoa học công nghệ.
Theo đó, giải pháp được đưa ra là đổi mới công nghệ, thiết bị theo hướng hiện đại, phù hợp với điều kiện tự nhiên và quy mô sản xuất của các mỏ, nâng cao mức độ cơ giới hóa, tự động hóa trong khai thác than và khoáng sản. Cùng với đó là ứng dụng các giải pháp kỹ thuật công nghệ phù hợp nhằm huy động tối đa trữ lượng tài nguyên than nằm dưới các công trình, đối tượng cần bảo vệ trên bề mặt; công nghệ đào sâu vét bùn phù hợp điều kiện đáy mỏ chật hẹp sau mỗi mùa mưa cho các mỏ than lộ thiên sâu.
Không chỉ vậy, theo ông Trần Tú Ba, trong thời gian tới cần thiết kế, chế tạo, làm chủ công nghệ chế tạo một số sản phẩm tự động hóa trong dây chuyền khai thác than hầm lò, lộ thiên, chế biến khoáng sản, an toàn mỏ thay thế thiết bị nhập ngoại; nghiên cứu lựa chọn công nghệ sấy than bùn hợp lý cho các dây chuyền sàng tuyển than; nghiên cứu về an toàn, môi trường, điều kiện tự nhiên, vật liệu và hóa chất; nghiên cứu hoàn thiện các công nghệ xử lý nước thải, khí thải và chất thải rắn theo hướng nâng cao hiệu quả xử lý, giảm tiêu hao năng lượng; nghiên cứu công nghệ tận thu chất thải từ các mỏ, nhà máy nhiệt điện để sản xuất vật liệu mới gắn với tăng trưởng xanh.
Theo ông BT Tee, Tổng giám đốc Công ty UBM Vietnam, Ban Tổ chức Triển lãm Mining Vietnam 2018, mặc dù lĩnh vực khai khoáng trên thế giới đang trong giai đoạn khó khăn, sự kiện Mining Vietnam vẫn tiếp tục giữ vững quy mô và thu hút được đông đảo các doanh nghiệp trưng bày trong nước và quốc tế. Đây là minh chứng cho sự lạc quan của ngành công nghiệp này tại Việt Nam, chủ yếu do chính sách khuyến khích xuất khẩu của Chính phủ và nhu cầu tiêu thụ khoáng sản trong nước ngày một gia tăng.
Với vai trò là đơn vị nghiên cứu, tư vấn khoa học và công nghệ, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, trong thời gian tới Viện cần quan tâm, đẩy mạnh hợp tác với các đơn vị trong và ngoài ngành, nhằm đưa những tiến bộ khoa học và công nghệ trong công nghệ khai thác, chế biến than, khoáng sản, góp phần phát triển bền vững ngành công nghệ khai khoáng Việt Nam.
Lê Hà