Việt Nam đang xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, trong đó khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được xác định nền tảng để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ (KH&CN) Chu Ngọc Anh cho biết như trên tại Hội nghị "Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Một trụ cột cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam".
Hội nghị do Bộ KH&CN và Đại sứ quán Australia tại Việt Nam và Liên minh Đổi mới Phát triển Quốc tế (IDIA) đồng tổ chức đã diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, 11 Lê Hồng Phong, Hà Nội với sự tham dự của Thủ tướng, lãnh đạo các bộ, ngành, doanh nghiệp, chuyên gia cấp cao quốc tế.
Ba câu hỏi lớn để Việt Nam phát triển KH&CN
Theo Bộ trưởng, KH&CN có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính sách về KH&CN đã được tập trung hoàn thiện với nhiều quy định tiến bộ và đổi mới. Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia được hình thành và chuyển dịch theo hướng đưa doanh nghiệp trở thành trung tâm.
Phong trào khởi nghiệp sáng tạo đã lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội; tiềm lực KH&CN quốc gia được củng cố; thị trường KH&CN bước đầu gắn kết hoạt động KH&CN với sản xuất, kinh doanh. Hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ dần đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.
Những năm qua, sự đóng góp của khoa học công nghệ thể hiện trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp... Theo đánh giá của tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO), trong những năm gần đây, Việt Nam luôn tăng hạng trong xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp.
Tuy nhiên, để khoa học thực sự trở thành động lực và nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam cần giải quyết các vướng mắc khó khăn; có các giải pháp mạnh mẽ hơn để thu hút đội ngũ cán bộ KH&CN đầu ngành; tăng cường đầu tư...
Tiếp bài phát biểu, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh, Việt Nam đang xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, trong đó khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được xác định nền tảng để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Bà Caitlin Wiesen - Đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam
Cơ quan quản lý đã tăng cường triển khai hoạt động hợp tác với các quốc gia có nhiều kinh nghiệm phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo như Phần Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc... Nhiều tổ chức trong và ngoài nước cũng đang hỗ trợ Việt Nam triển khai các hoạt động phát triển KH&CN.
Tại hội nghị, các chuyên gia đã trình bày báo cáo về tương lai nền kinh tế số của Việt Nam và các kết quả bước đầu của Báo cáo khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến 2035, tầm nhìn 2045. Các báo cáo này được thực hiện trên cơ sở khảo sát kỹ lưỡng thực tiễn và nghiên cứu bối cảnh của Việt Nam hiện tại.
Bộ trưởng cũng đặt ra 3 câu hỏi mà hội nghị cần giải quyết. Đó là làm thế nào để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành trụ cột cho phát triển kinh tế - xã hội; giải pháp gì để thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia với doanh nghiệp là trung tâm và kiến nghị nào dành cho Việt Nam.
Việt Nam cần đẩy mạnh chuyển giao công nghệ
Theo TS. Lucy Cameron, tư vấn nghiên cứu cao cấp, CSIRO, trước đây Việt Nam gia tăng sản xuất, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, thúc đẩy dựa trên tăng trưởng truyền thống. Tuy nhiên, để bứt phá cần chú trọng đến công nghệ cao, tập trung vào phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo với những định hướng mới.
Bà dẫn lại lời phát biểu của Bộ trưởng Bộ KH&CN Việt Nam về giải pháp phát triển KH&CN và coi đó là định hướng đúng đắn. Theo bà Lucy Cameron, chỉ những quốc gia tận dụng tốt KH&CN mới có những bứt phá nhảy vọt trong giai đoạn hiện nay.
Nhiều doanh nghiệp Việt đã tận dụng tốt những nền tảng công nghệ như Vietnam Airlines dùng máy bay không người lái, công nghệ thực tế ảo tăng cường hiệu quả hoạt động.
Bà nhận định, xuất khẩu Việt Nam đạt được nhiều thành tựu. Tại những thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, TP HCM đã xuất hiện nhiều xu hướng lớn như công nghệ số, có thể tạo hình thù cho nền kinh tế; quốc tế hóa: sự hội nhập kinh tế cũng ngày càng hiệu quả hơn qua các hiệp định thương mại tự do chứng tỏ Việt Nam ngày càng có sự gắn kết hơn với nền kinh tế thế giới.
Bà đưa ra một số xu thế chủ đạo và các kịch bản lớn có thể tác động nhiều đến nền kinh tế Việt Nam bao gồm: kịch bản chuyển đổi số, kịch bản xuất khẩu số, kịch bản tiêu dùng số, kịch bản truyền thống... Mỗi kịch bản đều có khả năng tác động đến tăng trưởng GDP hàng năm của Việt Nam.
Thông qua đó, tiến sĩ cũng đưa ra một số kiến nghị đến Việt Nam là: Xây dựng nền tảng thống nhất kết nối hệ thống đổi mới sáng tạo, tận dụng được sức mạnh các bên, tập trung vào các lĩnh vực chuyên sâu, cung cấp hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Việt Nam nên tham gia nhiều diễn đàn trong khu vực, thúc đẩy quỹ đầu tư mạo hiểm; đẩy mạnh quan hệ đối tác về công nghệ và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy quan hệ đối tác của chính phủ, khu vực tư nhân
"Chúng tôi tin Việt Nam có cơ hội to lớn trong việc tận dụng công nghệ số để có những đột phá trong thời gian tới nhờ lực lượng lao động trẻ... Vị trí trung tâm của khu vực cũng là lợi thế lớn và nếu có định hướng lớn, Việt Nam có thể đạt được tham vọng của mình", TS. Lucy Cameron khẳng định.
Bốn thách thức phát triển kinh tế xã hội Việt Nam
Phát biểu về phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, bà Caitlin Wiesen - Đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam cho biết, theo báo cáo "Các chỉ số Phát triển con người Việt Nam" do UNDP thực hiện, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng liên tục trong 27 năm qua. Tính chất bao trùm trong sự tăng trưởng của Việt Nam được thể hiện qua sự phát triển nhanh của nền kinh tế. Những kết quả khả quan đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế số, câu hỏi đặt ra, liệu sự phát triển của Việt Nam có bền vững và người dân có được hưởng lợi từ nền kinh tế hay không. Việt Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn trong sự phát triển kinh tế do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0...
Bà Caitlin Wiesen cũng chỉ ra bốn thách thức hiện nay của Việt Nam. Thứ nhất là mô hình tăng trưởng mới, rủi ro trong bẫy thu nhập trung bình thấp. Thách thức chuyển đổi mô hình từ sử dụng tài nguyên thiên nhiên sang mô hình mới khiến Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai là tạo ra việc làm mới. Cuộc cách mạng 4.0 mang lại cơ hội những cũng tạo ra không ít thách thức cho việc tạo ra việc làm. Tự động hóa và trí tuệ nhân tạo được cho ra sẽ cướp đi cơ hội cho nhiều người lao động trong các ngành công nghiệp, điện tử, ngân hàng... Tuy nhiên, nhiều việc làm được tạo ra, đòi hỏi người Việt phải tăng cường đổi mới
Thứ ba là rủi ro về mất bình đẳng. Cách mạng 4.0 có nguy cơ dẫn đến sự gia tăng bất bình đẳng. Lợi nhuận và giá trị từ những kỹ năng mới sẽ cao hơn nhưng lại tạo ra tình trạng bất bình đẳng về thu nhập ngày càng gia tăng...
Thứ tư là rủi ro suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu. Tình trạng ô nhiễm môi trường đang tác động đến triển vọng phát triển bền vững của Việt Nam.
"Việt Nam có tránh được những rủi ro này hay không phụ thuộc nhiều doanh nghiệp tư nhân", bà Caitlin Wiesen bày tỏ.
Trước những thách thức này, đại diện UNDP cho rằng, sự phát triển của Việt Nam phụ thuộc vào việc trang bị các kỹ năng mới cho người Việt để họ nắm bắt cơ hội. Hệ thống an sinh xã hội có thể tăng cường khả năng ứng phó của những người bị tổn thưởng. Nền tảng của phát triển con người là lấy họ làm trung tâm, phát triển vì con người.
Ông Kym Dongwha - Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc
Bên cạnh đó, Việt Nam cần có cách tiếp cận quản trị mới, tạo điều kiện để phát triển con người đồng thời tăng cường khả năng của người dân để nắm bắt nhu cầu mới: xây dựng, đào tạo kỹ năng trong thế kỷ mới.. Việt Nam cần đổi mới hệ thống giáo dục để đổi mới sáng tạo; học theo hướng mở...
"Việt Nam có thể nắm bắt công nghệ để tạo ra bước nhảy vọt trong đổi mới công nghệ, tăng cường đổi mới hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, để tất cả mọi người không bị đẩy lại phía sau", bà Caitlin Wiesen kỳ vọng.
Viện nghiên cứu công nghiệp hùng mạnh sẽ hiện thực hóa công nghệ
Phát biểu tại sự kiện, ông Kym Dongwha - Viện trưởng Viện KH&CN Việt Nam - Hàn Quốc chia sẻ thông điệp, khi xác định được định hướng thì phải đi tới tận cùng và các nước cần có viện nghiên cứu hùng mạnh để hiện thực hoá công nghệ. Ông cũng đưa ví dụ về câu chuyện phát triển của Hàn Quốc. "Chúng tôi đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển công nghệ, những đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực viễn thông. KIST là Viện Khoa học Công nghệ Hàn Quốc, sau đó có thêm ETRI. Khi đó, chúng tôi tập trung vào ba phần: memo call, công nghệ TDX, CDMA", ông chia sẻ.
Memo call là công nghệ đầu tiên Hàn Quốc được xây dựng dành cho đường dây nóng tại Nhà Xanh có bảo mật. Tiếp đó là công nghệ TDX, được xây dựng vào những năm 80. Đây là giai đoạn phát triển chậm do tốc độ tăng trưởng của Hàn Quốc bị chững lại. Kế hoạch này kéo dài 5 năm, tập trung vào điện tử và ngành công nghệ thông tin - một trong những trụ cột chính.
Việc xây dựng này xảy ra đồng thời với kế hoạch viễn thông "mỗi gia đình Hàn Quốc chỉ có một điện thoại". Sau đó, Hàn Quốc phát triển công nghệ CDMA - một phần quan trọng, góp phần mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển công nghệ thông tin truyền thông tại Hàn Quốc. CDMA được thương mại hoá từ năm 1991-1996 nhờ sự hợp tác với ETRI và Qualcomm.
"Tại sao cần viện nghiên cứu công nghiệp?". Trả lời câu hỏi này, Viện trưởng Viện KH&CN Việt Nam - Hàn Quốc cho biết, viện nghiên cứu công nghiệp sẽ là nhà cung cấp giải pháp công nghệ và sản xuất; là công cụ cho quan hệ đối tác công-tư (PPP); là công cụ đàm phán để nhập khẩu công nghệ và là nguồn đào tạo nhân lực công nghệ cho nước nhà.
Ông Kym Dongwha khẳng định, các viện nghiên cứu công nghiệp trong khối công lập là nền tảng cho chuỗi giá trị trong sản xuất để phát triển nền kinh tế.
Bài, ảnh: Nhóm PV