Tiềm lực KH&CN Thứ bảy, 04/05/2024 , 07:44 pm
Cập nhật : 16/11/2022 , 07:11(GMT +7)
Hành trình đẩy lùi bệnh lao của nhóm các nhà khoa học
PGS.TS. Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương đại diện nhóm nghiên cứu nhận giải thư
Công trình "Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị bệnh hô hấp tại Việt Nam" do PGS.TS Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương và 22 đồng tác giả vừa vinh dự nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ đợt 6.

Mô hình tinh hoa có thể giảm đến 72% bệnh lao

Cụm công trình "Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị bệnh hô hấp tại Việt Nam" là cụm công trình nghiên cứu lớn, liền mạch và xuyên suốt với ba nhóm mục tiêu cốt lõi được thể hiện trong 23 nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng trên 3 năm để giải quyết một vấn đề y tế cộng đồng rất khó khăn là bệnh hô hấp, đặc biệt là bệnh lao ở nước ta. Cụm công trình nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc với số người tham gia nghiên cứu lên đến hàng trăm nghìn người, được thực hiện bởi số lượng nghiên cứu viên rất lớn từ trung ương đến địa phương, thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới thuộc chuyên ngành hô hấp.

PGS.TS Nguyễn Viết Nhung chia sẻ: Lý do lựa chọn công trình nghiên cứu khoa học này là vì chúng ta đang có khát vọng chấm dứt bệnh lao. Thực tế, bệnh lao có hơn 140 năm qua, từ khi tìm thấy vi khuẩn lao nhưng đến nay chưa được giải quyết. Vì vậy, chúng tôi luôn đau đáu, khát vọng mong muốn chấm dứt bệnh lao.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã triển khai 4 điểm mới cần phải làm (đổi mới về tư duy, công nghệ, tiếp cận và đầu tư. Cụm công trình này là đổi mới về công nghệ và tiếp cận. Với ý tưởng ban đầu là “vét tất cả các nguồn lây” trong cộng đồng, chúng tôi (chọn tỉnh Cà Mau  là nơi tương đối biệt lập để nghiên cứu, xung quanh chủ yếu là biển) đã thiết kế nghiên cứu ACT3 (nghĩa là phát hiện chủ động bệnh lao trong cộng đồng) trong 4 năm và cho kết quả tốt đẹp.

Công trình này lần đầu tiên triển khai nghiên cứu với cỡ mẫu lớn gần 100.000 người, ứng dụng kỹ thuật tiên tiến để sàng lọc, chẩn đoán sớm, phát hiện bệnh lao trong cộng đồng đã làm giảm bệnh lao nhanh hơn 44% so với can thiệp thường quy. Và nếu kết hợp tác động của các hoạt động thường quy có thể giảm đến 72% bệnh lao sau 4 năm triển khai nghiên cứu, là bằng chứng về tính khả thi của mục tiêu chấm dứt bệnh lao toàn cầu. Đây là bằng chứng truyền cảm hứng cho toàn thế giới, tạo niềm tin cho những người mong muốn chấm dứt bệnh lao, cộng đồng những người chống lao.

Tuy nhiên, nếu áp dụng theo ý tưởng này sẽ rất tốn kém vì tất cả người dân sẽ được lấy đờm 1 lần/năm, làm xét nghiệm Xpert (xét nghiệm xác định vi khuẩn). Và chúng tôi đã nghiên cứu ra, với X quang phổi có thể chụp hàng loạt rất nhanh. Qua nghiên cứu về dịch tễ điều tra, tỷ lệ dương tính trong số những người có vi khuẩn lao hơn 90% (nghĩa là độ nhạy của phương pháp trên 90%). Phương pháp này có làm nhanh, một lúc nhiều người để sàng lọc những người nào cần phải làm xét nghiệm Xpert.

Năm 2016, nhóm thực hiện đã đề xuất chiến lược 2X (Xquang và Xpert), phát hiện chủ động nhưng sử dụng Xquang để sàng lọc và Xpert để khẳng định bệnh lao. Một bằng chứng rất rõ rệt khi áp dụng chiến lược mới, tỷ lệ phát hiện bệnh lao tăng lên. Năm 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, chúng ta đã giảm 23% số bệnh nhân lao được phát hiện. Nhưng năm 2022, nước ta đã áp dụng “ồ ạt” theo chiến lược 2X ở hầu hết các tỉnh/TP, ước tính trong 3 quý đầu đạt chỉ tiêu ngang bằng với thời điểm trước khi có dịch Covid-19. Điều này đã gây ấn tượng với các tổ chức thế giới (CDC, WHO) và được mệnh danh là “quán quân” phục hồi phòng, chống lao (dịch vụ khám, chữa bệnh, phát hiện bệnh lao).

 PGS.TS Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương

Bước tiến quan trọng trong lộ trình chấm dứt bệnh lao

Lần đầu tiên Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu xác định được gánh nặng dịch tễ bệnh lao trên toàn quốc và những khoảng trống cần can thiệp từ hệ thống y tế, từ cộng đồng người bệnh và từ hệ thống chính trị. Kết quả của các nghiên cứu đã tham mưu cho Chính phủ và Bộ Y tế ban hành những chính sách y tế hiệu quả, đồng bộ, bảo đảm cung cấp cho người bệnh một hệ thống chăm sóc sức khỏe phổi toàn diện từ tuyến trung ương đến địa phương, đồng thời hoạch định các chiến lược và Chương trình hành động quốc gia về chấm dứt bệnh lao.

Kết quả của công trình đã góp phần quan trọng vận động nguồn lực trong nước và quốc tế, thúc đẩy tiến trình chấm dứt bệnh lao tại Việt Nam, được WHO và quốc tế đánh giá cao.

PGS.TS Nguyễn Viết Nhung cho biết, lần đầu tiên ở Việt Nam, sau 40 năm lịch sử điều trị lao, nhóm đã nghiên cứu và phát triển thành công phác đồ điều trị lao 4 tháng, là một bước tiến quan trọng trong lộ trình chấm dứt bệnh lao trên toàn cầu. Việc rút ngắn thời gian điều trị chỉ còn 2/3 so với phác đồ hiện tại đã làm tăng khả năng tuân thủ điều trị, giảm nguy cơ xuất hiện tác dụng phụ nghiêm trọng, nâng cao chất lượng điều trị cho người bệnh.

Với cụm công trình này, nhóm nghiên cứu tìm ra phác đồ mới (phác đồ 4 tháng) điều trị bệnh lao (với mục đích phát hiện và điều trị khỏi nhiều nhất). Sau 40 năm, chúng ta mới có phác đồ điều trị lao 4 tháng. Đây là nghiên cứu mang tính chất đột phá về mặt điều trị. Bởi những phác đồ trước đây kéo dài tới 24 tháng, 20 tháng sau đó giảm còn 15 tháng, 12 tháng, 9 tháng, hiện tại, đang dùng phác đồ phổ thông 6 tháng.

Việc ứng dụng sáng tạo phác đồ ngắn hạn điều trị lao đa kháng và phác đồ có thuốc mới Bedaquiline điều trị tiền siêu kháng và siêu kháng thuốc với hiệu quả điều trị cao và tác dụng phụ thấp, phối hợp với tối ưu hóa các kỹ thuật chẩn đoán tiên tiến đã giúp Việt Nam có kết quả điều trị cao hơn trung bình trên thế giới khoảng 15- 20%. Cụm nghiên cứu này đã cứu sống hàng nghìn người bệnh lao đa kháng, tiền siêu kháng và siêu kháng thuốc, trước đây coi như vô phương cứu chữa.

Đặc biệt, công trình này nghiên cứu về bệnh phổi, trong đó, có một số những điểm sáng. Điểm sáng thứ nhất, lần đầu tiên tại Việt Nam, ca ghép thùy phổi từ người cho sống đã thành công với kết quả điều trị chống thải ghép rất thuận lợi. Theo dõi và điều trị biến chứng thải ghép sau ghép phổi là một vấn đề rất khó khăn kể cả ở các nước có nền y học phát triển, sau hơn 4 năm, sức khỏe của bệnh nhân đầu tiên được ghép phổi tại Việt Nam vẫn ổn định. Thành công từ cụm công trình nghiên cứu này đã đưa Việt Nam vào bản đồ ghép phổi của thế giới, đưa kỹ thuật chuyên ngành hô hấp nước ta lên tầm cao mới. Từ đó, kỹ thuật ghép phổi có thể được áp dụng thường quy tại nhiều cơ sở y tế trên toàn quốc.

Điểm sáng thứ hai, trong cụm công trình đã đưa ra những nghiên cứu, chẩn đoán sớm, xây dựng được mạng lưới chương trình ung thư để các trung tâm kết hợp với đơn vị vệ tinh hỗ trợ người bệnh ung thư phổi một cách tốt nhất.

Điểm sáng thứ ba, lần đầu tiên, nước ta ước tính được có khoảng 1,5 triệu người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Như vậy, chúng ta đang chẩn đoán dưới mức và ước tính khoảng 4,2% dân số trên 40 tuổi bị mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Các nghiên cứu điều trị và dự phòng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, chẩn đoán sớm và điều trị ung thư phế quản là những bước tiến lớn của khoa học y học nước nhà, đã góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài tuổi thọ cho người bệnh, đồng thời giảm tải gánh nặng cho hệ thống y tế.

Điểm sáng thứ 4, liên quan đến cúm A (H5N1). Kết quả công trình giúp chẩn đoán sớm và điều trị các bệnh nhân mắc cúm A (H5N1) đã chứng tỏ năng lực y tế của Việt Nam ngang tầm khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn cao điểm bùng phát dịch H5N1 các năm 2004-2006, nhờ có các quy trình chẩn đoán, điều trị và dự phòng dịch bệnh toàn diện, Việt Nam đã khống chế được bệnh H5N1 thành công với tỉ lệ tử vong thấp là 39% so với thế giới là 61%.

Một công cụ khác cũng được áp dụng trong nghiên cứu này là xác định tổn thương ở phổi một cách tốt nhất (ung thư, nấm, tổn thương phổi khác). Bộ công cụ này đã được cấp độc quyền với giải pháp hữu ích là phương pháp nghiên cứu, chẩn đoán sớm, chính xác bằng những kim sinh thiết phổi hút, kim nhỏ cũng như  các lưới định vị ở trên chụp Xquang phổi.

Cụm công trình này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với cộng đồng. Mục đích của công trình này nhằm phát hiện bệnh lao một cách chủ động để nhiều người được tiếp cận với phương pháp khám, xét nghiệm tiên tiến, giảm tỷ lệ tử vong. Việc ứng dụng thành công các kỹ thuật tiên tiến để sàng lọc, chẩn đoán sớm và xây dựng phác đồ mới điều trị bệnh lao đã giúp giảm gánh nặng bệnh lao tại Việt Nam nhanh hơn nhiều so với mức trung bình của toàn thế giới, với tỷ lệ giảm là 4,5% mỗi năm tại Việt Nam so với 1,5% mỗi năm trên toàn cầu.

Ngoài ra, công trình này cũng có ý nghĩa rất lớn đối với công tác phòng, chống lao trên thế giới. Việt Nam đang được đánh giá là mô hình mẫu, đi đầu. Đặc biệt, sau dịch Covid-19, nước ta được đánh giá rất cao về sự hồi phục. Có thể nói, kết quả của công trình này đã góp phần quan trọng vận động nguồn lực trong nước và quốc tế, thúc đẩy tiến trình chấm dứt bệnh lao tại Việt Nam, được WHO và quốc tế đánh giá cao.

Bài, ảnh: Đăng Minh

 

Ý kiến của bạn
Tên của bạn : *
E_mail : *
Tiêu đề : *
Nội dung : * (Bạn vui lòng gõ tiếng Việt có dấu)
 
Mã bảo mật :   
   
Các tin khác

   
Xem tin theo ngày
   
 
Xem nhiều nhất

English
Video  
Thăm dò ý kiến
Bạn biết website “truyenthongkhoahoc.vn” qua nguồn thông tin nào?
Bạn bè giới thiệu
Qua Google
Qua sách báo, quảng cáo banner