Để thuận tiện cho việc lấy ý kiến của các cơ quan chuyên môn, nhà quản lý, nhà khoa học doanh nghiệp và cung cấp thêm cho độc giả những thông tin liên quan đến tình hình phát triển KH&CN trong nước thời gian qua, cũng như việc định hướng phát triển KH&CN Việt Nam phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt là vấn đề đổi mới cơ chế, chính sách, đầu tư tài chính cho hoạt động KH&CN, báo Đất Việt phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông khoa học-Công nghệ, Bộ KH&CN tổ chức buổi Giao lưu trực tuyến với chủ đề “Đổi mới quản lý KH&CN, phương thức đầu tư, cơ chế tài chính và phát triển nguồn nhân lực KH&CN” vào hồi 9 - 11h ngày 10/7/2012 tại Trụ sở Báo Đất Việt (108 Trường Chinh, Đống Đa, Hà Nội).
- Xin ông cho biết: 1. Động lực cho đổi mới KH&CN là gì? 2.Lực lượng cho đổi mới là ai? 3.Sản phẩm KH có lợi ích thiết thực cho xã hội là gì? (Trí Tâm, 35 tuổi, Nam, Hà Nội)
Ông Trần Văn Tùng: Động lực cho đổi mới KH-CN xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc đổi mới này được thể hiện chủ yếu thông qua đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp của nước ta. Đồng thời, KH-CN cũng giúp cho việc đưa ra các giải pháp, các công nghệ để bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đất nước và bảo đảm an ninh quốc phòng của quốc gia.
Lực lượng đổi mới chính là các nhà khoa học, các cán bộ nghiên cứu tại các viện nghiên cứu, các trường đại học, trong các doanh nghiệp, kể cả lực lượng cán bộ đang làm công tác quản lý KH-CN, và những người say mê cải tiến kỹ thuật trong xã hội.
Sản phẩm KH có lợi ích thiết thực cho xã hội chính là những kết quả nghiên cứu được nghiên cứu một cách nghiêm túc, đáp ứng được các yêu cầu của doanh nghiệp, của nền kinh tế, và giúp nâng cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh cho sản phẩm.
- Xin hỏi Phó Chủ nhiệm UB KHCN&MT Quốc hội, từ khi Nghị quyết Trung ương 2 Khóa VIII ra đời, đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật, chính sách về KH-CN đã được hoàn thiện như thế nào? (Minh Đức, 52 tuổi, Nam )
Ông Lê Bộ Lĩnh: Từ sau khi có Nghị quyết TƯ 2 khóa VIII năm 1996 đến nay, có thể nói hệ thống các văn bản chính sách về khoa học và công nghệ (KH-CN) đã từng bước được hoàn thiện. Trên bình diện chung, Quốc hội đã thông qua Luật KH-CN năm 2000 đặt nền tảng khuôn khổ thể chế cho KH-CN. Năm 2002 Hội nghị TƯ 6 khóa 9 đã ra Nghị quyết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết này và tiếp tục xác định các nhiệm vụ giải pháp ưu tiên để thực hiện mục tiêu phương hướng phát triển KH-CN đến năn 2020. Trên cơ sở đó, năm 2003 Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển KH-CN đến năm 2010. Năm 2004 Đề án về đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động KH-CN cũng được thông qua.
Mới đây, Chính phủ cũng đã phê duyệt Chiến lược phát triển KH-CN giai đoạn 2011-2020 và Đề án tiếp tục đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động KH-CN. Có thể nói, các văn bản này đã cụ thể hóa các quan điểm và định hướng phát triển KH-CN nêu trong Nghị quyết TƯ 2 (Khóa VIII).
Trên bình diện chuyên ngành, Quốc hội đã thông qua một loạt các Luật trên các lĩnh vực KH-CN cụ thể như: Luật chuyển giao công nghệ, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật giao dịch điện tử, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Công nghệ cao, Luật Đo lường, Luật Năng lượng nguyên tử, Luật Đa dạng sinh học... Chính phủ cũng đã ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các Luật này.
Về phương diện tổ chức KH-CN đã có nhiều Nghị định và Nghị quyết quy định về cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH-CN, hoạt động của các doanh nghiệp KH-CN, tổ chức và hoạt động của các phòng thí nghiệm trọng điểm, Khu công nghệ cao Hòa Lạc, Khu công nghệ cao Tp. Hồ Chí Minh... Ngoài ra, các bộ, ngành cũng ban hành nhiều văn bản về việc tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ KH-CN 5 năm và hàng năm. Các chính sách về khuyến khích tài chính và phát triển nguồn nhân lực KH-CN cũng từng bước được hoàn thiện.
Như vậy, có thể nói trong hơn 10 năm qua hệ thống chính sách, pháp luật về KH-CN đã liên tục được hoàn thiện bao trùm hầu hết các lĩnh vực hoạt động KH-CN tạo khuôn khổ thể chế, để phát triển và ứng dụng KH-CN phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, các chính sách và pháp luật đã ban hành còn chậm đi vào cuộc sống, kết quả hoạt động KH-CN chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển đất nước, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện. Đó là lý do giải thích vì sao chúng ta phải chuẩn bị Đề án về phát triển KH-CN trong thời kỳ mới trình hội nghị TƯ sắp tới và Quốc hội cũng đã đưa Luật KH-CN (sửa đổi) vào chương trình xây dựng Luật và Pháp lệnh năm 2012.
-Thưa ông, Nghị quyết TW 2 ra đời gần 20 năm qua, tuy nhiên hoạt động KH-CN luôn có sự thay đổi nhằm phù hợp với đòi hỏi thực tiễn đời sống và sản xuất. Theo ông, Nghị quyết TW 2 đã lỗi thời chưa? Nếu có thì đó là những vấn đề gì và cần phải thay đổi như thế nào trong thời gian tới, thưa ông Phạm Văn Linh? (Nguyễn Thúy Hằng, Hưng Yên, 50 tuổi, Nữ )
Ông Phạm Văn Linh:Cuộc sống vận động biến đổi là một quy luật của tự nhiên và xã hội. Giai đoạn mới luôn đặt ra những vấn đề đòi hỏi phải tiếp tục bổ sung và phát triển. Đó cũng là những vấn đề luôn đúng với KH-CN và quốc gia nào cũng thế. Ở Việt Nam, từ khi ra đời NQ TW 2 khóa VIII đến nay, đây là NQ đầu tiên của BCH TW Đảng về KH-CN. Đây thực sự là một bước ngoặt quan trọng đối với sự phát triển KH-CN của nước ta trong suốt 16 năm qua.
Tuy còn nhiều hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện song phải khẳng định KH-CN đã góp phần quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ cao, chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang từng bước phát triển theo chiều sâu. Nhiều luận điểm của NQ TW2 cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Chẳng hạn xác định vị trí vai trò của KH-CN những định hướng lớn về phát triển KH-CN, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc phát triển KH-CN cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Tuy nhiên sự vận động của cuộc sống trong quá trình thực hiện những quan điểm đó cũng cho thấy còn nhiều vấn đề cần bổ sung và phát triển trong điều kiện mới của nước ta để thật sự KH-CN là quốc sách cùng với giáo dục đào tạo, để KH-CN là động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Để đạt được những mục tiêu đó đòi hỏi giai đoạn mới chúng ta phải tiếp tục tục bổ sung, phát triển những quan điểm mới, những chủ trương mới của KH-CN trong đó chúng tôi cho rằng, cần quan tâm đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế quản lý, phương thức đầu tư, cơ chế tài chính cho KH-CN. Nâng cao chất lượng và phát triển nguồn nhân lực là những giải pháp mang tính đột phá. Rõ ràng như vậy không phải là NQ TW2 đã lỗi thời mà đòi hỏi phải kế thừa và phát triển trong thời đại mới cho phù hợp với sự phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
- Ngân sách nhà nước chi cho KH-CN không nhiều, chỉ chiếm 2% chi ngân sách nhưng vẫn có tình trạng trả lại tiền ngân sách do chi không hết. Vậy có hiện tượng như vậy không, thưa thứ trưởng? Nguyên nhân tại sao lại có tình trạng như vậy, và cách khắc phục như thế nào? (Thanh Hải, 35 tuổi, Nữ , Phổ Yên, Thái Nguyên)
Ông Trần Văn Tùng: Việc Nhà nước hằng năm dành ra một khoản kinh phí khoảng 2% chi ngân sách cho KH-CN thể hiện sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước đối với phát triển KH-CN ở nước ta. Hiện nay, cơ chế quản lý tài chính đối với KH-CN đang thực hiện theo cách các nhiệm vụ KH-CN được phê duyệt trước 1 năm. Do vậy, đến năm sau khi bắt đầu lập các hội đồng xét duyệt cụ thể thì phát hiện ra có những nhiệm vụ không đủ điều kiện để triển khai. Cơ quan quản lý nhà nước về KH-CN phải quyết định dừng các nhiệm vụ đó lại. Phần kinh phí dành cho nhiệm vụ này theo quy định của Luật ngân sách phải được nộp về cho Nhà nước, không được chuyển cho các nhiệm vụ khác. Đó là biện pháp quản lý đảm bảo cho việc sử dụng ngân sách Nhà nước không lãng phí và có hiệu quả. Như vậy là có hiện tượng tiền KH-CN được trả lại Nhà nước vì phải tuân theo các quy định. Đây cũng là một trong những khó khăn trong hoạt động KH-CN ở nước ta hiện nay.
Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới việc quản lý kinh phí dành cho các nhiệm vụ KH-CN sẽ được chuyển dần về các quỹ KH-CN - có đặc điểm là không bị hạn chế về năm tài chính và sẽ đáp ứng yêu cầu kịp thời nghiên cứu của các tổ chức, cán bộ KH tại từng thời điểm trong năm.
-Trong các buổi làm việc của đoàn khảo sát với đơn vị nghiên cứu vừa qua, hầu hết các ý kiến đại diện các đơn vị được khảo sát đều cho rằng, cơ chế chính sách cho hoạt động KH-CN còn nhiều bất cập, đặc biệt là chế độ ưu đãi cho cán bộ làm nghiên cứu còn nhiều hạn chế. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào thưa ông Phạm Văn Linh. (Hoàng Văn Tân, Gia Lâm, Hà Nội , 40 tuổi, Nam )
Ông Phạm Văn Linh: Trước hết tôi rất chia sẻ với những ý kiến phát biểu của các đại biểu dự Hội thảo cũng như nội dung câu hỏi mà bạn đã nêu. Như bạn đã biết, dù cơ chế chính sách có đổi mới bao nhiêu nhưng suy cho cùng yếu tố quyết định cho sự phát triển vẫn là con người. Điều này hoàn toàn đúng với lĩnh vực KH-CN.
Trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quan tâm đối với trí thức nói chung và trực tiếp là cán bộ KH-CN nói riêng, nhờ đó đến nay chúng ta có cả một đội ngũ cán bộ KH-CN phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, một thực tế cũng thấy rất rõ rằng các chính sách, chế độ ưu đãi đối với cán bộ nghiên cứu còn rất hạn chế. Đây là một trong những cản trở lớn cho sự phát triển KH-CN nước ta. Hiện nay đội ngũ những người làm công tác nghiên cứu còn rất vất vả trong cuộc sống và thực hiện công việc chuyên môn, chưa thực sự được đãi ngộ xứng đáng đối với sự đóng góp, và sức lao động mà họ bỏ ra. Nói đến chính sách đãi ngộ là cả một hệ thống các chính sách cụ thể từ đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá, chế độ lương, thưởng và các hình thức tôn vinh xã hội vẫn còn nhiều bất cập. Do đó chưa thực sự động viên khuyến khích đúng mức đến đội ngũ những người làm công tác nghiên cứu. Đây cũng là vấn đề mà trong Đề án về KH-CN trình Hội nghị TW 6 khóa XI tới đây dứt khoát là một nội dung sẽ được thể hiện ở đó.
-Tôi được biết, TS Nguyễn Chỉ Sáng là một trong những nhà khoa học có nhiều kinh nghiệm trong việc chủ trì các đề tài KH-CN cấp Nhà nước, TS có gặp khó khăn gì trong việc xây dựng nhiệm vụ, quá trình thực hiện nhiệm vụ? Những kinh nghiệm của TS trong việc này? (Xuantuyen@yahoo.com, 33 tuổi, Nam )
Ông Nguyễn Chỉ Sáng: Trước hết rất cám ơn bạn đã có lời khen mình có nhiều kinh nghiệm trong việc chủ trì các đề tài KH-CN cấp nhà nước. Thực tế thì Viện Nghiên cứu Cơ khí là một viện lớn nên số lượng đề tài viện thực hiện hàng năm tương đối nhiều. Vì câu hỏi của bạn đề cập đến một vấn đề tương đối rộng nên có lẽ câu trả lời của tôi sẽ tập trung vào việc xây dựng nhiệm vụ các đề tài nghiên cứu. Việc thực hiện nhiệm vụ tôi sẽ trả lời vào một dịp khác.
Tôi cũng thừa nhận rằng, tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn khi xây dựng các nhiệm vụ KH-CN và triển khai các nhiệm vụ này. Trước hết trong việc xây dựng các nhiệm vụ, chủ trương của viện là gắn các nhiệm vụ nghiên cứu với các chương trình phát triển các ngành công nghiệp. Ví dụ, khi đất nước ta phát triển rất nhiều các dự án thủy điện thì việc chế tạo các thiết bị cho nhà máy thủy điện là nhu cầu cấp bách nhằm giảm giá thành, giảm nhập khẩu, chủ động trong việc xây dựng thì viện chúng tôi đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu là làm chủ việc thiết kế và chế tạo các thiết bị này.
Trong thời gian vừa qua, chúng tôi đã có một số đề tài nghiên cứu về thiết kế, chế tạo thiết bị cơ khí thủy công, tích hợp và cung cấp hệ thống tự động hóa cho nhà máy thủy điện và kết quả nghiên cứu của các đề tài này được ứng dụng ngay vào các công trình thực tế và đến nay, chúng tôi đã ứng dụng gần 20 công trình thủy điện trong đó có cả các dự án lớn như thủy điện Sơn La, Lai Châu.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp việc xây dựng các đề tài nghiên cứu không đồng pha với các dự án xây dựng trong thực tế. Ví dụ, với quy hoạch phát triển các nhà máy điện than ở Việt Nam thì Việt Nam cần mua rất nhiều thiết bị từ nước ngoài với tổng giá trị ước tính đến năm 2030 khoảng 70 tỷ đô la. Viện Nghiên cứu cơ khí đã cùng với các doanh nghiệp cơ khí trong nước xây dựng chùm đề tài nghiên cứu về thiết kế, chế tạo thiết bị nhà máy nhiệt điện. Điều cần thiết để cho các đề tài nghiên cứu dạng này thành công là chúng ta phải có một dự án để chúng ta thực hiện. Để có được các hợp đồng theo phương thức đấu thầu đang thực hiện hiện nay, viện và các doanh nghiệp cơ khí trong nước không đủ năng lực, kinh nghiệm, và cần có chỉ định thầu của Chính phủ trong một, hai dự án đầu tiên. Nhưng đáng tiếc là cho đến nay, viện cùng với các doanh nghiệp trong nước chưa đươc nhà nước chỉ định thầu cho một dự án hoặc một số thiết bị của dự án để thực hiện song song với việc thực hiện đề tài nghiên cứu. Chính vì vậy, cho nên cho đến nay hầu hết các thiệt bị cho nhà máy nhiệt điện vẫn phải nhập ngoại và đề tài nghiên cứu này cũng vẫn chưa được thực hiện.
Trên đây, tôi đã có 2 ví dụ cho việc xây dựng thành công và không thành công các đề tài nghiên cứu. Tôi có thể tổng kết như sau: Căn cứ trên quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, viện dự đoán được nhu cầu về dịch vụ, máy móc thiết bị cần cung cấp cho các ngành này. Từ đó, xây dựng các đề tài nghiên cứu nhằm nâng cao năng lực đảm bảo khả năng có thể cung cấp dịch vụ, thiết kế, chế tạo những máy móc thiết bị này cho các ngành công nghiệp nói trên. Với cách làm như vậy, thì các đề tài của chúng tôi có tính ứng dụng rất tốt, đáp ứng được nhu cầu thực tế của các ngành công nghiệp. Một lần nữa xin cám ơn bạn vì câu hỏi!
|
Bộ trưởng Bộ KH-CN thăm khu thí nghiệm của trường ĐH sư phạm kỹ thuật Hưng Yên. (Ảnh: Vụ KH-CN các ngành kinh tế kỹ thuật - Bộ KH-CN) |
- Thưa ông Trần Văn Tùng, tôi đã từng làm đề tài, dự án cấp Nhà nước về KH-CN và cũng đã thấu hiểu được những khó khăn trong vấn đề tài chính trong KH-CN nói chung và với việc làm đề tài, dự án KH-CN nói riêng. Ông cho biết, thời gian tới, Bộ có những thay đổi nào về cơ chế tài chính đối với việc thực hiện, triển khai các đề tài, dự án KH-CN cấp Bộ, cấp Nhà nước? (Nguyễn Mạnh Hùng, 40 tuổi, Nam , Hải Dương)
Ông Trần Văn Tùng: Khó khăn về cơ chế tài chính đối với các nhà khoa học khi thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu hiện nay là về quy trình, thủ tục, định mức thanh quyết toán các đề tài hết sức phức tạp, rườm rà, làm nản lòng các nhà khoa học. Trong thời gian tới, Bộ KH-CN đang phối hợp với Bộ Tài chính để xây dựng thông tư hướng dẫn việc thanh quyết toán các nhiệm vụ nghiên cứu một cách thông thoáng hơn.
Ví dụ, Bộ KH-CN đã xây dựng và phối hợp với Bộ Tài chính để ban hành Thông tư liên tịch về các định mức kinh tế kỹ thuật cho các nhiệm vụ nghiên cứu KH-CN. Tại Thông tư này sẽ sửa đổi, bổ sung và thay thế Thông tư số 44, Thông tư số 93 về các nội dung chi và định mức chi các nhiệm vụ nghiên cứu, đồng thời hướng dẫn lập dự toán phần chi tiền lương và tiền công vào trong các dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH-CN. Điều này giúp cho các nhà khoa học không còn phải nghĩ ra quá nhiều chuyên đề không cần thiết và đảm bảo việc thanh quyết toán thuận lợi, dễ dàng.
-Xin hỏi ông Lê Bộ Lĩnh, chúng ta đặt ra mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại, ông có tin chúng ta sẽ đạt được mục tiêu này? (Tuyết Nga, 35 tuổi, Nữ , Bà Rịa- Vũng Tàu)
Ông Lê Bộ Lĩnh: Đây là câu hỏi rất hay. Tôi cũng như các bạn chúng ta đều hy vọng và mong muốn sẽ đạt được mục tiêu này. Tuy nhiên, đây là một mục tiêu đầy thách thức vì hiện nay nền kinh tế của chúng ta đang ở trong bối cảnh hết sức khó khăn. Trước hết cần phải tạo được sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tiếp đó và đồng thời phải thực hiện quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Đây là những công việc đòi hỏi phải có thời gian và nguồn lực rất lớn và là điều kiện quan trọng để chúng ta có thể đạt được mục tiêu đến năm 2020 về cơ bản Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nền kinh tế của chúng ta hiện tại vẫn dựa chủ yếu vào đầu tư, sử dụng lao động giá rẻ, công nghệ trình độ thấp và nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì chúng ta phải có một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa trên ứng dụng KH-CN, nguồn nhân lực được đào tạo và các ngành kinh tế, sản phẩm chủ lực có khả năng cạnh tranh cao. Nếu chúng ta có chính sách đúng và quyết tâm thực hiện thì tôi tin rằng chúng ta có thể đạt được mục tiêu đặt ra.
-Cháu xin hỏi 2 câu: câu 1: Cơ chế tài chính cho các đề tài cấp cơ sở của Viện... (có đề tài triển khai được 1 - 2 năm thì lại bị cắt vốn trong năm 2012 trong khi chỉ còn 1 năm nữa là tổng kết) số tiền đã đầu tư trong 2 năm đã bị bỏ phí và tại sao không duy trì các đề tài đã và đang triển khai cho kết thúc? Câu 2: Hiện nay có rất nhiều đơn vị NCKH còn nặng về bằng cấp có rất nhiều người họ chỉ là kỹ sư nhưng kiến thức họ rất giỏi vậy khi tham gia đấu thầu hoặc đề xuất đề tài thì họ lại bi gạt đi vì không có đủ năng lực như thạc sỹ hay tiến sỹ. Vậy bộ KHCN có cơ chế gì để đảm bảo sự công bằng trong NCKH? Cháu xin cảm ơn! (Nguyễn Thanh Tuấn, 28 tuổi, Nam , Gia Lai)
|
Ông Trần Văn Tùng đang trả lời câu hỏi của độc giả. (Ảnh: Như Ý)
|
Ông Trần Văn Tùng: Vấn đề bạn đặt ra cần được tìm hiểu cho chính xác, có phải là đơn vị của bạn đã không thực hiện đúng tiến độ nghiên cứu đề tài KH-CN hay không? Vì theo quy định, mỗi nhiệm vụ KH-CN khi được các cơ quan quản lý quyết định cho thực hiện đều phải xác định thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu đó. Việc cấp kinh phí sẽ được tiến hành theo tiến độ do các cán bộ nghiên cứu đã đề xuất với các cơ quan quản lý nhà nước. Và các cán bộ nghiên cứu cần phải bảo đảm tiến độ nghiên cứu như đã đề xuất khi nhận nhiệm vụ nghiên cứu KH. Trong trường hợp tiến độ bị chậm, các cán bộ nghiên cứu cần phải báo cáo với các cơ quan quản lý nhà nước kịp thời để có thể xử lý theo đúng quy định, tránh để tình trạng xảy ra như bạn đã nêu.
Việc xem xét và quyết định giao nhiệm vụ nghiên cứu KH cho các cán bộ nghiên cứu dựa trên yếu tố quan trọng nhất là năng lực của cán bộ nghiên cứu. Do vậy, nếu một kỹ sư mà có khả năng nghiên cứu về một vấn đề tốt hơn so với những người là tiến sĩ hoặc thạc sĩ thì các cơ quan quản lý nhà nước về KH-CN phải giao nhiệm vụ cho người kỹ sư đó. Việc này đang được thực hiện theo các quy định của Bộ KH-CN về việc xét chọn, tuyển chọn tổ chức và cá nhân thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu KH-CN.
-Thưa ông, trong hội thảo “Đầu tư và cơ chế tài chính phát triển khoa học và công nghệ” được tổ chức vừa qua, nhiều ý kiến các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý cho rằng, đầu tư cho KH-CN ở Việt Nam hiện nay chưa có trọng tâm, còn dàn trải dẫn đến hiệu quả của nghiên cứu chưa cao. Theo ông, những ý kiến này đúng hay sai? (Đặng Thúy Ngần, Ứng Hòa, Hà Nội , 55 tuổi, Nữ )
Ông Phạm Văn Linh: Đây cũng là ý kiến của nhiều người và cũng là những nguyên nhân làm giảm hiệu quả của việc đầu tư tài chính đối với phát triển KH-CN. Hiện nay, mức đầu tư tài chính cho KH-CN nước ta còn thấp. Bình quân 8 đô la một người. Trong khi đó ở Trung Quốc là 30 đô la, Hàn Quốc là 3000 đô la. Mức đầu tư thấp như vậy nhưng đầu tư còn dàn trải, chưa tập trung cao vào những lĩnh vực ưu tiên, những sản phẩm quốc gia, những lĩnh vực trọng yếu để thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao sức cạnh trang của nên kinh tế. Thực tế này có nhiều nguyên nhân, trước hết là vấn đề xác định nhiệm vụ nghiên cứu khoa học chưa phù hợp, nhiệm vụ nghiên cứu KH phải bắt nguồn từ phát triển kinh tế xã hội, từ việc giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển; cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ còn chưa phù hợp, việc phân cấp quản lý về tài chính gắn với thực hiện nhiệm vụ KH-CN chưa tốt, vẫn còn nặng về bình quân dàn trải.
Do vậy hiệu quả sử dụng đồng vốn cho phát triển KH-CN còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, việc huy động các nguồn lực xã hội phát huy vai trò của các doanh nghiệp, các tổ chức KH-CN nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa thực hiện tốt dẫn tới việc khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún hiệu quả thấp. Tình trạng này cho thấy yêu cầu sớm khắc phục những hạn chế, yếu kém nói trên.
-Khoa học công nghệ được Đảng, Nhà nước được xác định là Quốc sách hàng đầu; song thực tế đầu tư cho KH chưa tương xứng và KH cũng chưa đáp ứng được điều đó. Theo ông vì sao và cần giải pháp gì? - (Nguyễn Xuân Tuấn, 35 tuổi, Nam )
Ông Lê Bộ Lĩnh: Đúng là Đảng và Nhà nước luôn khẳng định phát triển KH-CN là quốc sách hàng đầu. Điều này cũng phản ánh một thực tế là KH-CN trên thực tế KH-CN chưa được đặt đúng vị trí để có thể trở thành động lực cho sự phát triển của đất nước trong bối cảnh cuộc cách mạng KH-CN đang diễn ra như vũ bão trên thế giới và cạnh tranh phát triển giữa các quốc gia cũng chính là cạnh tranh dựa trên phát triển và ứng dụng KH-CN. Chúng ta mong muốn phát triển nhanh, đuổi kịp các nước đi trước đương nhiên phải coi KH-CN là quốc sách hàng đầu.
|
Ông Lê Bộ Lĩnh tại báo Đất Việt. (Ảnh: N.Y) |
Tuy nhiên giữa mong muốn và thực thi vẫn còn khoảng cách, trong đó có việc bảo đảm các điều kiện thực hiện. Một trong những điều kiện quan trọng, đầu tiên như rất nhiều bạn đọc quan tâm là đầu tư và tiền đâu để đầu tư. Hiện nay Nhà nước dành 2% chi ngân sách cho KH-CN, một tỷ lệ vừa phải so với nhiều nước, song do quy mô nền kinh tế chúng ta còn nhỏ nên con số tuyệt đối rất khiêm tốn chỉ bằng mức đầu tư cho R&D của một công ty xếp vào loại thường trên thế giới. Hơn nữa khoản đầu tư này lại chiếm đến trên 70% tổng đầu tư xã hội cho KH-CN lại được phân bổ mang nặng tính bình quân và dàn trải. Chính vì vậy chúng ta cũng khó có thể tạo ra được sự phát triển đột phá trong nghiên cứu và ứng dụng KHCN.
Theo tôi để giải quyết vấn đề này, trước hết chúng ta cần phải đặt sự phát triển KH-CN gắn với nhu cầu phát triển của nền kinh tế nói chung, các ngành và các doanh nghiệp nói riêng. Nói cách khác là phải tạo ra nhu cầu thực sự đối với phát triển và ứng dụng KH-CN. Điều này cũng có nghĩa là nguồn lực đầu tư cho KH-CN phải tập trung và có định hướng ứng dụng rõ ràng tránh tình trạng phong trào, dàn trải, mong muốn nhiều thứ khi nguồn lực có hạn để rồi không đạt được một mục tiêu cụ thể nào.
Tiếp nữa, cần đổi mới mạnh mẽ cơ chế tài chính cho hoạt động KH-CN để chúng ta có thể huy động nhiều hơn các nguồn lực xã hội, trước hết là từ doanh nghiệp cho hoạt động KH-CN. Cần thúc đẩy sự hình thành các quỹ KH-CN từ cấp quốc gia đến cấp doanh nghiệp và coi đây là một phương thức tài trợ cho KH-CN. Nguồn ngân sách nhà nước cần đầu tư tập trung cho các cơ sở có năng lực nghiên cứu, đồng thời hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực KH-CN.
- Tôi đang làm chủ nhiệm một đề tài nghiên cứu nhưng tôi thấy các thủ tục thanh quyết toán tài chính, thủ tục hành chính rất phức tạp. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự chuyên tâm của nhóm nghiên cứu. Vậy từ kinh nghiệm cá nhân của mình, ông làm thế nào để để tránh cho các nhà khoa học phải phân tâm đến vấn đề này? (Võ Thu Hà, 40 tuổi, Nữ , Hà Nội)
Ông Nguyễn Chỉ Sáng: Tôi cũng thừa nhận rằng, có những thủ tục phức tạp cho việc thanh quyết toán như việc thay đổi các hạng mục công việc trong đề tài, việc trượt giá vật tư thiết bị phục vụ cho đề tài, việc một số hạng mục công việc xuất hiện trong quá trình thực hiện đề tài mà không lường trước được… sẽ làm cho việc thanh quyết toán tài chính trở lên khó khăn. Tuy nhiên, tôi cũng không nghĩ rằng việc thanh quyết toán và thủ tục hành chính là rất phức tạp. Ở Viện tôi, để giải quyết những khó khăn có thể xuất hiện như đã kể trên thì các chủ nhiệm đề tài được phép tạm ứng hoặc chi trước từ nguồn kinh phí tự có của viện khi việc thanh toán với kho bạc không được thực hiện kịp thời. Việc này đã giải quyết được việc chậm chễ thanh quyết toán khi chưa hoàn thiện những hồ sô, chứng từ của đề tài.
Tôi nghĩ rằng, vấn đề lớn hơn và phức tạp hơn là việc xây dựng kinh phí để thực hiện đề tài. Theo quy định hiện nay, để xây dựng mức kinh phí chủ nhiệm đề tài phải bóc tách ra thành rất nhiều các nhiệm vụ nghiên cứu nhỏ với kinh phí khoán nhất định, nhiều khi việc bóc tách này là không sát thực tế và không đúng với giá trị công việc. Hiện nay, cũng có rất nhiều ý kiến của các nhà khoa học đề nghị khoán việc thực hiện các đề tài nghiên cứu, tôi cho rằng đây cũng là ý kiến hay mặc dù khó triển khai nhưng chúng ta nên nghiên cứu để đưa ra được những phương thức mới trong thời gian tới.
Câu trả lời của tôi chắc đã đáp ứng phần nào câu hỏi của bạn nhưng tôi không nghĩ rằng sẽ có một giải pháp làm cho các nhà khoa học không phải nghĩ về việc thanh quyết toán.
-Tiền nghiên cứu KH-CN của Việt Nam đang thiếu, nhưng theo tôi cũng lại đang thừa, khi có rất nhiều địa phương, viện, trường nghiên cứu cùng một vấn đề (chẳng hạn như GIS, nhiên liệu sinh học từ thực vật, động vật…) vậy tại sao chúng ra không nghĩ cách đầu tư cho một, hoặc vài đơn vị nghiên cứu phát triển thành sản phẩm hàng hóa để bán hoặc chuyển giao cho các đơn vị khác mà cứ phải nơi nào cũng nghiên cứu lãng phí như vậy?(34 tuổi, Nam, Nghệ An)
Ông Trần Văn Tùng: Thoạt nhìn có vẻ như nhiều nhiệm vụ nghiên cứu ở các địa phương, viện, trường trùng nhau, nhưng thực chất mỗi đề tài nghiên cứu lại có đối tượng nghiên cứu khác nhau.
Ví dụ, cùng là lĩnh vực nhiên liệu sinh học nhưng có người nghiên cứu về một loại cây, người khác lại nghiên cứu về một loại cá để làm ra nhiên liệu sinh học. Hoặc trong lĩnh vực GIS (ứng dụng vệ tinh địa tĩnh) thì có cán bộ nghiên cứu để áp dụng trong lĩnh vực quản lý đất đai, còn những người khác lại nghiên cứu để áp dụng theo dõi về môi trường. Các cơ quan quản lý cũng phải xem xét rất kỹ để tránh tình trạng chồng chéo và trùng nhau về các nhiệm vụ nghiên cứu, đảm bảo cho việc sử dụng kinh phí của Nhà nước có hiệu quả nhất.
-Để KH-CN thực sự phát triển có sức “lan tỏa” trong xã hội, góp phần phát triển kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng. Ngoài việc đầu tư cơ bản từ nguồn vốn nhà nước, KH-CN cần phải có nguồn vốn khác từ xã hội hóa. Tuy nhiên đến nay, vấn đề này còn nhiều hạn chế, vậy đâu là nguyên nhân thưa ông Phạm Văn Linh? - (Phạm Hải Yến, Thanh Hóa, 44 tuổi, Nam )
|
Ông Phạm Văn Linh và phó TBT báo Đất Việt tại buổi giao lưu |
Ông Phạm Văn Linh: Đúng như nội dung câu hỏi bạn đã đề cập, để KH-CN có sức lan tỏa thì không chỉ đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước, thực tế này ở các nước phát triển cũng như vậy. Yêu cầu phát triển của đất nước ta đòi hỏi đầu tư cho KH-CN phải có những ưu tiên đúng mức, đúng với vai trò quốc sách hàng đầu của KHCN đối với sự phát triển của đất nước. Hiện nay bình quân đầu người về đầu tư KH-CN mới chỉ đạt 8 đô la cho một người trong khi ở các nước như Hàn Quốc là 3000 đô la cho một người.
Do vậy để KH-CN có sự lan tỏa nếu chỉ dựa vào nguồn đầu tư từ ngân sách sẽ rất hạn chế, đòi hỏi phải huy động tổng hợp các nguồn lực ngoài xã hội. Chú ý đúng mức đầu tư của doanh nghiệp cho phát triển KH-CN, coi doanh nghiệp là trung tâm của đổi mới, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cung quan trọng và là nguồn cầu tiềm năng của KH-CN. Vì vậy trong thời gian tới đòi hỏi phải có nhiều cơ chế chính sách huy động các nguồn lực xã hội, tạo sức lan tỏa cho KH-CN phục vụ sự phát triển đất nước.
Nguyên nhân chính trước hết là do nhận thức chưa đúng của những người đứng đầu các cơ quan đơn vị, các doanh nghiệp trong việc đầu tư cho KH-CN. Bên cạnh đó, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa đầu tư KH-CN với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, cơ chế chính sách chưa hoàn chỉnh, thị trường KH-CN còn sơ khai... Vì vậy, nếu chỉ nhìn trước mắt thì sức hấp dẫn của việc đầu tư nguồn vốn cho KH-CN không bằng đầu tư cho nhiều lĩnh vực khác.
-Thực tế cho thấy, đến giờ đã là tháng 6, các chương trình, đề tài khoa học mà Bộ KH-CN đã duyệt và trình mà kinh phí cho các chương trình, đề tài đó vẫn chưa có. Vậy có cách nào giải quyết tình trạng này, thưa TS Sáng? (Trần Hùng Long, 46 tuổi, Nam , Nghĩa Hưng, Nam Định )
Ông Nguyễn Chỉ Sáng: Tôi không hiểu kinh phí bạn đề cập là cho đề tài nghiên cứu dạng nào? Năm nào? Vì theo tôi biết, các đề tài nghiên cứu có hai dạng chính:
Dạng một là các đề tài cấp bộ, thông thường các đề tài cấp này việc thông báo hoặc cấp phát kinh phí là đúng tiến độ hoặc nếu có chậm trễ thì thời gian chậm trễ là không đáng kể.
Dạng hai là các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, tôi thừa nhận các đề tài dạng này trong thời gian vừa qua, việc cấp kinh phí được thực hiện rất chậm so với năm kế hoạch. Ví dụ, năm 2012 mới bắt đầu kí hợp đồng và giải ngân cho các đề tài năm 2011, giữa năm 2012 mới bắt đầu kí hợp đồng cho các đề tài cấp Nhà nước của năm 2012. Thực trạng này xảy ra vào các năm đầu của giai đoạn kế hoạch 5 năm, những năm tiếp theo của kế hoạch 5 năm thì việc kí hợp đồng nghiên cứu, cấp phát kinh phí thường là không bị chậm. Nguyên nhân này tôi nghĩ Bộ KH-CN đã biết và trong giai đoạn 5 năm tới sẽ được khắc phục.
-Xin hỏi ông Trần Văn Tùng, chúng ta đã đặt mục tiêu phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho KH-CN đạt 1,5% GDP vào năm 2015 và trên 2% GDP vào năm 2020. Chúng ta đã đặt ra mục tiêu đầu tư xã hội cho KH-CN đạt 1,5% GDP nhưng đến nay chưa thực hiện được, và trong Chiến lược lần này lại nhắc lại mục tiêu đó. Vậy xin hỏi ông, ngành KH&CN nói chung và Bộ KH-CN nói riêng đã có những chiến lược gì để chúng ta đạt được mục tiêu đó? (Hoàng Văn Hợp, 33 tuổi, Nam , Bình Thuận
Ông Trần Văn Tùng: Để thực hiện mục tiêu tổng đầu tư cho KH-CN từ xã hội đạt mức 1,5% GDP vào năm 2015 cần các doanh nghiệp phải dành ra một số kinh phí cho hoạt động nghiên cứu đổi mới công nghệ tại doanh nghiệp. Về mặt chính sách, Nhà nước đã có quy định doanh nghiệp được dành tới 10% lợi nhuận trước thuế cho quỹ phát triển KH-CN tại doanh nghiệp. Trước mắt cần tuyên truyền để các doanh nghiệp biết rõ lợi ích và được phép trích lại khoản kinh phí này đầu tư cho phát triển KH-CN tại đơn vị mình. Trong thời gian tới, Bộ KH-CN phối hợp cùng các Bộ, ngành liên quan để sửa đổi, bổ sung quy định nêu trên trình các cơ quan liên quan có thẩm quyền quyết định để doanh nghiệp có thể trích tối thiểu 10% lợi nhuận trước thuế cho hoạt động phát triển KHCN của doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp đẩy mạnh nguồn kinh phí ngoài nhà nước đầu tư cho KH-CN và hoàn thành mục tiêu đầu tư 1,5% GDP cho phát triển KH-CN vào năm 2015.
|
Toàn cảnh buổi giao lưu. (Ảnh: Như Ý) |
-Từ năm 2011 - 2020, KH-CN phấn đấu sử dụng ngân sách Nhà nước để đầu tư với mức trên 2% GDP, nhưng không thể sử dụng toàn bộ ngân sách mà cần huy động thêm từ nguồn lực xã hội. Vậy theo Phó chủ nhiệm, chúng ta cần có hình thức nào để thu hút đầu tư từ xã hội vào KH-CN? -(Lê Thu Trang, 32 tuổi, Nữ )
Ông Lê Bộ Lĩnh: Đúng là để có được mức đầu tư cho KH-CN bằng khoảng 2% GDP mỗi năm thì không thể chỉ trông chờ vào nguồn lực ngân sách. Kinh nghiệm thực tế của các nước trên thế giới cũng cho thấy chi từ ngân sách chỉ đáp ứng khoảng 30% tổng đầu tư xã hội cho KH-CN. Hiện nay thực trạng của chúng ta thì ngược lại, đầu tư từ ngân sách chiếm tới 70%. Để đảo ngược tình hình, chúng ta phải có chính sách để huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội, trước hết từ khu vực doanh nghiệp đầu tư cho KH-CN. Trước hết cần thực hiện tốt quy định các doanh nghiệp dành 10% lợi nhuận trước thuế để hình thành Quỹ phát triển KH-CN, có thể là ở từng doanh nghiệp hoặc ở quy mô tập đoàn hoặc theo ngành. Tuy nhiên giải pháp lâu dài và cơ bản là tạo ra một sức ép buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh dựa trên phát triển và ứng dụng KH-CN. Nhà nước cần dùng các công cụ gián tiếp để khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho KH-CN thông qua các công cụ thuế, lãi suất.
-Theo ông, 2% tổng chi ngân sách cho KH&CN có ít không? Theo ông tiền đầu tư cho KH&CN nên ở mức nào? (Phạm Quý Đức, 29 tuổi)
Ông Lê Bộ Lĩnh: Như tôi đã trả lời một bạn khác cũng quan tâm đến vấn đề đầu tư tài chính, mức đầu tư hiện nay cho KH-CN là còn khiêm tốn, không đủ điều kiện để thực hiện các mục tiêu chiến lược mà chúng ta đã đề ra (ở đây tôi không đề cập đến tình trạng sử dụng lãng phí, không đúng mục tiêu của khoản tiền ít ỏi này). Mức bao nhiêu là đủ? điều này phải căn cứ trên nhu cầu thực tế và năng lực triển khai các nhiệm vụ KH-CN. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ chúng ta phải cần ít nhất 2% GDP đầu tư cho KH-CN (bao gồm cả từ ngân sách và các nguồn lực xã hội).
-Xin hỏi ông Trần Văn Tùng: Chúng ta vẫn biết hiện đầu tư cho KH-CN còn dàn trải, thiếu tập trung nên hiệu quả đầu tư chưa cao. Chúng ta đã đặt ra trong Chiến lược phát triển KH-CN là phải đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Nhưng việc xác định những tổ chức KH-CN tiềm năng để đầu tư rất khó. Ý kiến của ông về vấn đề này thế nào và chúng ta phải làm thế nào mới có thể thực hiện định hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm? (Hoàng Văn Mạnh, 37 tuổi, Nam , Nam Định)
Ông Trần Văn Tùng: Việc lựa chọn các tổ chức KH-CN để được đầu tư phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực, và đủ khả năng giải quyết các nhiệm vụ quốc gia là điều hết sức quan trọng. Bộ KH-CN đã thành lập một đơn vị chuyên trách (Viện đánh giá, định giá KH-CN) thực hiện nhiệm vụ đánh giá hoạt động của các tổ chức KH-CN với các tiêu chí được lập ra một cách khoa học, có tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Trong năm 2011 và năm nay, Bộ đã yêu cầu đơn vị nói trên thí điểm đánh giá, lựa chọn một số tổ chức để thực hiện đầu tư phát triển. Tôi hy vọng với kết quả đánh giá của Viện, chúng tôi sẽ tìm ra được các tổ chức xứng đáng được đầu tư, nâng cấp, đạt tới trình độ nghiên cứu của các nước trong khu vực.
|
Giàn khoan tự nâng 90 m nước do VN chế tạo. (Ảnh: P.Hoàn) |
-Một nhà khoa học trong cuộc họp về chính sách phát triển nguồn nhân lực KHCN đã nói rằng, đào tạo đội ngũ KHCN đã quan trọng, song đào tạo đội ngũ quản lý khoa học còn quan trọng hơn. Ông nghĩ sao về điều này? - (Minh Ngọc, 35 tuổi, Nữ , Hà Nội)
Ông Trần Văn Tùng: Tôi cũng nhất trí với ý kiến của nhà khoa học đó, vì đội ngũ cán bộ quản lý KH-CN chính là những người có nhiệm vụ xây dựng các văn bản rất quan trọng như chiến lược phát triển KH-CN, cơ chế quản lý hoạt động KH-CN, chính sách đầu tư tài chính và phát triển nguồn nhân lực. Đội ngũ này nếu có trình độ, có kinh nghiệm thì chất lượng của các văn bản nói trên sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển KH-CN, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Bộ KH-CN trong thời gian qua liên tục tổ chức các lớp học cho đội ngũ cán bộ quản lý từ trung ương tới địa phương nhằm nâng cao năng lực, kiến thức để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thậm chí có những nhiệm vụ quản lý mới, ví dụ như việc triển khai Quỹ phát triển KH-CN, Bộ KH-CN đã cử một số cán bộ đi học tập dài hạn ở nước ngoài để có thể thực hiện tốt yêu cầu của công tác quản lý.
-Việc bố trí ngân sách cho các đề tài của Viện ông có gặp khó khăn gì? Có khi nào đề tài/dự án xây dựng mà không thể triển khai do chậm ngân sách không thưa ông Nguyễn Chỉ Sáng? - (Vũ Xuân Biên, 37 tuổi, Nam , Hải Dương)
|
Ông Nguyễn Chỉ Sáng (bên trái) tại tòa soạn báo Đất Việt. |
Ông Nguyễn Chỉ Sáng: Thực tế Viện Nghiên cứu Cơ khí cũng có một số khó khăn nhỏ khi thanh quyết toán đề tài nghiên cứu như thay đổi các hạng mục nghiên cứu hoặc một hạng mục công việc trong thực tế, Viện phải chi một số lượng kinh phí nhiều hơn nhiều so với kinh phí dự toán. Ví dụ một hạng mục viết chương trình điều khiển cho hệ thống tự động hóa chỉ được khoảng 20 triệu đồng nhưng trong thực tế, nếu thuê chuyên gia nước ngoài, Viện phải trả vài chục nghìn đô la hoặc mức chi thực tế cho các kỹ sư của Viện cũng lên tới hàng trăm triệu đồng. Như vậy, Viện phải chuyển đổi kinh phí từ những hạng mục khác cho hạng mục công việc này. Tôi nghĩ rằng đây là một câu hỏi nhiều bạn đọc quan tâm và mong muốn có một cơ chế khoán cho việc thực hiện các đề tài nghiên cứu.
Còn việc không triển khai đề tài, dự án do chậm ngân sách tôi không nghĩ là có một đề tài, dự án nào gặp phải khó khăn này.
-Bộ KH-CN đã nói đến việc đãi ngộ nhà khoa học như coi nhà khoa học là lao động đặc biệt chứ không phải là cán bộ hành chính, có các danh hiệu riêng cho nhà khoa học…Thế nhưng, từ nhiều năm nay tôi vẫn chưa thấy có chuyển biến gì? Phải chăng Bộ đang gặp khó, hay tại Bộ chưa quyết liệt làm? - (Túấn Anh, 29 tuổi, Nam , Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM)
Ông Trần Văn Tùng: Cách đây khá lâu, Bộ KH-CN đã tập trung xây dựng đề án sử dụng và trọng dụng cán bộ KH-CN trình các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, trong đó có nhiều điểm tạo môi trường làm việc, các chính sách ưu đãi, tôn vinh khen thưởng đối với các nhà khoa học. Trong đề án cũng đề xuất những chức danh mới như Tổng công trình sư, kỹ sư trưởng đối với những người được giao chủ trì thực hiện những nhiệm vụ quan trọng có tầm quốc gia. Thời gian qua, Bộ KH-CN cũng tổ chức xem xét đánh giá để trình lên trên việc khen thưởng, tôn vinh những nhà khoa học của đất nước thông qua các giải thưởng Nhà nước, giải thưởng Hồ Chí Minh về KH-CN. Để đáp ứng yêu cầu của thực tế, những nội dung về chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ KH-CN đã được đưa vào Đề án đổi mới về tổ chức cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH-CN để trình Thủ tướng xem xét, phê duyệt trong thời gian tới.
-Có thực trạng hiện nay khi các trung tâm lớn đã và đang chuyển về châu Á, thì điểm đầu tiên họ lựa chọn là Trung Quốc, vì nước này ngày càng chú trọng đến công tác đầu tư KH-CN, mà chỉ với 300.000 doanh nghiệp KH-CN, lực lượng này đóng góp đến 15% GDP. Trong khi đó, các công ty đa quốc gia đến đầu tư ở Việt Nam thường không chuyển giao công nghệ tiên tiến; phần lớn chỉ coi đây như một công xưởng gia công, với nhân công rẻ và những điều kiện đầu tư ưu đãi. Theo ý kiến của TS, để tránh tình trạng này Việt Nam phải làm thế nào? - (Vũ Kiến Huy, , 46 tuổi, Nam , Châu Đốc, An Giang)
Ông Nguyễn Chỉ Sáng: Câu hỏi của bạn rất hay nhưng trong thời lượng của buổi GLTT thì câu trả lời của tôi không thể đề cập hết được nguyên nhân của tình trạng này nhưng tôi có thể đưa ra một số ý kiến như sau:
Về mặt nguyên tắc tất cả các công ty đến đầu tư tại các nước đang phát triển thì họ phải tận dụng nhân công rẻ mạt, điều kiện ưu đãi và hạn chế việc chuyển giao công nghệ nhằm thu được lợi nhuận lớn nhất và tránh tạo ra đối thủ cạnh tranh.
Để nhận được chuyển giao công nghệ thì có một số điều kiện mà bản thân các công ty và chính quyền của các nước sở tại cần chuẩn bị: Một là chính quyền của nước sở tại phải có một định hướng lâu dài, kiên định về lĩnh vực, ngành công nghiệp mà nước sở tại cần phát triển; hai là chúng ta phải xây dựng một hạ tầng đồng bộ cần thiết để tiếp nhận việc chuyển giao công nghệ; ba là chúng ta phải xây dựng nguồn nhân lực có khả năng chủ động tiếp nhận công nghệ.
Trên cả 3 điều kiện này, chúng ta phải biết chúng ta muốn cái gì, chúng ta sẽ đi đến đâu và để đạt được mục đích đó thì chúng ta cần nhận chuyển giao công nghệ gì. Việc nhận chuyển giao công nghệ không nhất thiết phải mua bản quyền, mua thiết kế, mua công nghệ mà việc chuyển giao và làm chủ công nghệ còn được thực hiện ngay trong quá trình thực hiện dự án. Có lẽ, bài học về nhận chuyển giao KH-CN của Nhật Bản, Hàn Quốc trước đây và Trung Quốc hiện nay là những kinh nghiệm quý báu mà chúng ta cần học hỏi.
-Muốn phát triển được KH-CN phải có con người, nhưng thực tế các đơn vị nghiên cứu hiện nay rất khó để thu hút những người trẻ dấn thân vào con đường khoa học (do lương thấp, đãi ngộ ít, trong khi họ đi làm kinh tế nhiều tiền hơn) vậy Bộ KH-CN có cách gì để thu hút những người trẻ vào nghiên cứu? - (Quynh Lan 35 tuổi, Nữ )
Ông Trần Văn Tùng: Việc thu hút những cán bộ trẻ vào hoạt động nghiên cứu KH-CN là một định hướng của Bộ KH-CN trong thời gian qua. Để thực hiện điều này, Bộ KH-CN đã hình thành một chương trình nghiên cứu các nhiệm vụ KH-CN tiềm năng dành cho những người trẻ tuổi. Hy vọng rằng với việc triển khai chương trình nghiên cứu này, các bạn trẻ sẽ có cơ hội được tham gia làm chủ các nhiệm vụ nghiên cứu và có điều kiện cống hiến, sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu KH.
|
Máy xay cà phê - sản phẩm nghiên cứu của anh nông dân Trần Sỹ - Tp. Buôn Ma Thuật (Ảnh: Phương Hoàn) |
-Thưa ông Lê Bộ Lĩnh, nói về rào cản cho hoạt động KH-CN thì có rất nhiều nhưng theo ông, đâu là rào cản lớn nhất để KH-CN phát triển? - (Nguyễn Trần Nam, 52 tuổi, Nam )
Ông Lê Bộ Lĩnh: Hầu hết mọi người đều thừa nhận rào cản lớn nhất hiện nay để KH-CN phát triển là cơ chế tài chính. Nhưng cũng có thể có người hỏi vậy tại sao ai cũng nhận thấy rào cản này mà thực tế vẫn chưa khắc phục được. Theo tôi, rào cản của rào cản này là phát triển KH-CN chưa trở thành một sức ép đối với các nhà làm chính sách và các doanh nghiệp.
-Theo ông với cơ chế như hiện nay, liệu các nhà khoa học có thể sống bằng luơng? Làm thế nào để nhà khoa học có thể sống bằng nghề? , Nam, 32 tuổi. - (Hoàng Anh Tuấn, 32 tuổi, Nam)
Ông Lê Bộ Lĩnh: Đúng là chúng ta đang đứng trước một nghịch lý về tiền lương và thu nhập của những người làm khoa học và công nghệ bởi lẽ thang lương của các nhà khoa học vẫn theo thang lương hành chính sự nghiệp. Theo đó, một nghiên cứu viên chính có mức lương tương đương chuyên viên chính nghĩa là khoảng 4-5 triệu đồng/tháng, lương của giáo sư cũng chỉ khoảng 6-7 triệu đồng/tháng. Rõ ràng mức lương này không bảo đảm được cuộc sống để các nhà khoa học chuyên tâm vào công tác chuyên môn mà họ phải tăng thu nhập bằng nhiều hoạt động khác. Hệ quả là tiền lương ngày càng tách rời với thu nhập và không phản ánh năng lực trình độ chuyên môn của người làm khoa học.
Để nhà khoa học có thể sống bằng nghề thì trước hết chúng ta phải coi khoa học là một nghề, không phải ai cũng làm được. Bên cạnh việc cải tiến tiền lương theo hướng xác định thang bảng lương riêng cho ngạch khoa học tách khỏi ngạch hành chính sự nghiệp cần giao quyền tự chủ về quỹ lương cho các tổ chức KH-CN. Cơ chế tài chính cũng cần phân định rõ tiền lương và chi phí nghiên cứu để khắc phục tình trạng nguồn thu nhập của người làm khoa học là từ kinh phí của đề tài, mặc dù cả tiền lương và kinh phí đề tài đều từ ngân sách và không phải người làm khoa học nào cũng là chủ nhiệm đề tài.
|
Để nhà khoa học có thể sống bằng nghề thì trước hết chúng ta phải coi khoa học là một nghề, không phải ai cũng làm được. Trong ảnh: Nghiên cứu khoa học trong doanh nghiệp tại Trà Vinh (ảnh: Phương Hoàn) |
-Xin hỏi ông Trần Văn Tùng: Hiện cán bộ khoa học của chúng ta đang còn gặp rất nhiều khó khăn cả về điều kiện kinh tế, môi trường làm việc lẫn sự đãi ngộ… Trong một số văn bản, chính sách KH-CN đã ban hành mới đây có nói đến việc đãi ngộ, trọng dụng nhân tài. Tuy nhiên, việc thực hiện những chính sách đó chưa mạnh. Vậy theo ông, làm thế nào để chúng ta đảm bảo được thu nhập cũng như các chế độ đãi ngộ cho cán bộ ngành khoa học để họ yên tâm cống hiến, công tác? - (Nguyễn Bách, Nam, 29 tuổi)
Ông Trần Văn Tùng: Thực tế hiện nay, các cán bộ KH-CN được hưởng mức lương như các khu vực hành chính nhà nước không phù hợp với đặc thù hoạt động nghiên cứu KH. Để đảm bảo mức thu nhập của cán bộ KH-CN trong các tổ chức nghiên cứu, chúng ta cần thực hiện tốt cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định tại Nghị định 115. Các cán bộ KH-CN cần nỗ lực nghiên cứu, sáng tạo, đóng góp nhiều nhất cho tổ chức KH-CN, đồng thời tổ chức KH-CN phải đổi mới cơ chế tài chính, tiền lương tại đơn vị để có thể chi trả thu nhập xứng đáng với công sức của cán bộ KH. Mức thu nhập của cán bộ không bị hạn chế trần, thậm chí có thể gấp đôi, ba, năm lần so với các bậc lương hiện hành. Việc chi trả thu nhập cho cán bộ KH thực hiện theo quy chế chi tiêu nội bộ đã được thống nhất trong đơn vị. Với phương án như vậy, hy vọng cán bộ KH-CN có thể yên tâm công tác, gắn bó với đơn vị và cống hiến nhiều nhất cho hoạt động nghiên cứu.
-Với tư cách là lãnh đạo Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, xin ông đánh giá một cách khách quan những thành tựu, khó khăn cũng như những tồn tại, yếu kém của ngành KH-CN Việt Nam hiện nay? - (Bùi Thị Vui, 48 tuổi, Nữ)
Ông Lê Bộ Lĩnh: Đây là một câu hỏi rất lớn, trong phạm vi một buổi giao lưu trực tuyến rất khó có thể trả lời bạn một cách thỏa đáng. Trong các cuộc hội thảo gần đây do Bộ KH-CN tổ chức cũng như trên một số diễn đàn các nhà khoa học, các nhà quản lý đã có những phân tích và đánh giá tương đối đầy đủ những vấn đề như bạn nêu. Tôi chỉ xin trả lời một cách tổng quát rằng trong thành tựu chung của sự phát triển kinh tế xã hội đất nước có vai trò đóng góp xứng đáng của KH-CN, tuy nhiên thực trạng KH-CN của nước ta hiện nay còn nhiều vấn đề như tính ứng dụng thấp, mức độ gắn kết thấp giữa nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh, làm chủ các công nghệ tiên tiến của thế giới còn hạn chế, số lượng, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ KH-CN còn bất cập... Chúng ta cần phải giải quyết những vấn đề này để KH-CN đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống và sự phát triển đất nước.
-Các đề tài sau nghiên cứu của Viện được sử dụng như thế nào thưa ông? Có ý kiến cho rằng, cần phải quy định trách nhiệm để cả chủ nhiệm đề tài lẫn cơ quan chủ trì phải có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm nghiên cứu. Ông nghĩ sao? - (Huỳnh Đức Tiến, 27 tuổi, Nam , Nghệ An)
Ông Nguyễn Chỉ Sáng: Tôi sợ rằng, nếu cứ quy trách nhiệm cho chủ nhiệm đề tài lớn quá thì chắc không có nhà khoa học nào dám làm đề tài!
Thông thường Viện tôi có 2 loại đề tài nghiên cứu. Loại đề tài thứ nhất là nghiên cứu công nghệ nền hoặc những đề tài khó ứng dụng vào thực tế nhưng tạo cơ sở để phát triển nguồn nhân lực và tạo nền móng để đi vào một lĩnh vực công nghệ mới. Ví dụ như đề tài Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị phát điện sử dụng năng lượng sóng biển. Khi thực hiện đề tài này chúng tôi đã thiết kế và chế tạo được thiết bị phát điện công suất từ 5 đến 10 KW. Tuy nhiên để thương mại hóa được sản phẩm, đưa sản phẩm vào các công trình thực tế thì còn một khoảng cách không phải ngắn.
Loại đề tài thứ hai là giải quyết những vấn đề phát sinh khi thực hiện một chương trình phát triển của một lĩnh vực công nghiệp. Ví dụ khi đất nước phát triển Chương trình Xây dựng các nhà máy thủy điện thì nhiệm vụ làm chủ thiết kế chế tạo thiết bị các nhà máy thủy điện là rất cần thiết. Chúng tôi có một đề tài về Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thiết bị cơ khí thủy công, một đề tài về Tích hợp và chế tạo hệ thống điều khiển tự động nhà máy thủy điện, các kết quả nghiên cứu của các đề tài này đã được ứng dụng thành công vào các công trình thủy điện đang được xây dựng trong cả nước.
Mặc dù các kết quả nghiên cứu của các đề tài loại 1 và loại 2 không được hoặc được ứng dụng ngay vào thực tế nhưng cả hai loại đề tài này đều được đánh giá là thành công. Quay lại câu hỏi quy trách nhiệm về việc sử dụng kết quả của đề tài nghiên cứu, tôi cho rằng nên đặt nặng trách nhiệm cho đơn vị chủ trì và các cấp chính quyền hơn là cho chủ nhiệm đề tài.
|
|
-Hiện Bộ KH-CN đã thể hiện rất nhiều nỗ lực trong việc đổi mới, thế nhưng điều này lại phụ thuộc vào nhiều cơ quan (ví dụ như Bộ Tài chính), ông có tin đổi mới sẽ thành công? -(Hoàng Văn Trung, 50 tuổi, Nam , Hưng Yên)
Ông Trần Văn Tùng: Vấn đề đổi mới trong hoạt động KH-CN là điều hết sức cấp bách hiện nay. Có đổi mới thì mới có thể phát triển KH-CN và phục vụ cho phát triển KT-XH của đất nước. Chúng tôi tin rằng các cơ quan quản lý nhà nước đều mong muốn tạo những cơ chế thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân các nhà KH. Chúng tôi thấy mình có nhiệm vụ phải phối hợp, trao đổi, làm rõ những điểm chưa thống nhất giữa các cơ quan quản lý nhà nước để có thể cùng nhau xây dựng các văn bản và hướng dẫn cho hoạt động KH-CN thuận lợi nhất. Như vậy sẽ góp phần đổi mới hoạt động KH-CN để lĩnh vực này ngày càng phát triển.
-Theo định hướng về phát triển KH-CN của đất nước, Ủy Ban KH-CN và môi trường có vai trò như thế nào? - (Văn Biên, 47 tuổi, Nam , Viện KHCN VN)
Ông Lê Bộ Lĩnh: Từ chức năng và nhiệm vụ của mình Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội và đã không ngừng nỗ lực để góp phần thúc đẩy sự phát triển KH-CN của đất nước theo định hướng đã đề ra trong đường lối và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Các hoạt động được thể hiện thông qua công tác xây dựng pháp luật, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm. Ủy ban đã được giao thẩm tra các dự án luật về KH-CN và giám sát việc thực hiện các dự án luật này. Thông qua hoạt động lập pháp và giám sát chúng tôi đã có nhiều kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách và thể chế cho phát triển KH-CN. Ủy ban KHCN&MT cũng tham gia thẩm tra và giám sát việc phân bổ và thực hiện ngân sách dành cho KH-CN. Ngoài ra trong quá trình thẩm định và giám sát các công trình quan trọng của quốc gia chúng tôi luôn luôn chú trọng các yêu cầu về công nghệ, chất lượng và tác động môi trường.
-Hiện nay, một số doanh nghiệp đã áp dụng KH-CN có hiệu quả trong phát triển kinh tế. Liệu những kinh nghiệm quý báu trên có được điều chỉnh trong đề án sắp tới không thưa ông Phạm Văn Linh? (Hoàng Dương Liễu, 44 tuổi, Nữ )
Ông Phạm Văn Linh: Chắc chắn rồi, trong quá trình triển khai xây dựng Đề án trình Hội nghị TW 6 khóa XI về KH-CN, chúng tôi dành nhiều thời gian khảo sát những mô hình hay của các doanh nghiệp điển hình ở cả ba miền của đất nước. Phải nói rằng trong những năm vừa qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, một số doanh nghiệp đã có bước phát triển mạnh mẽ nhờ ứng dụng KH-CN, nhờ sự quan tâm đầu tư phát triển cho KHCN... như Viettel, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam... Những kinh nghiệm này chúng tôi đã tổng kết và đưa vào nội dung kiến nghị của Đề án.
- Hiện nay, diễn đàn Quốc hội thường rất nóng với các vấn đề dân sinh. Đó là điều đương nhiên. Song dường như ít thấy vấn đề KH-CN được nhắc đến trong các diễn đàn này hay trong các phiên chất vấn thành viên Chính Phủ mặc dù Đảng và Nhà nuớc luôn coi KHCN là động lực them chốt để phát triển KT-XT. Làm thế nào để KHCN có thể trở thành chủ đề thảo luận trong Quốc hội hàng năm thưa ông Lê Bộ Lĩnh? - (Trần Thanh Tịnh, 47 tuổi, Nam )
Ông Lê Bộ Lĩnh: Câu hỏi của bạn rất thú vị vì hình như vấn đề KH-CN nói chung ít được xã hội quan tâm. Hoạt động KH-CN thì lặng lẽ, âm thầm ít trở thành các chủ đề "hot" trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tại diễn đàn Quốc hội các câu hỏi chất vấn liên quan đến khoa học công nghệ cũng không nhiều.
Thực trạng này có nhiều nguyên nhân như KH-CN chưa thực sự là vấn đề bức xúc của các cử tri, hơn nữa đây cũng là vấn đề mang tính chuyên môn sâu nên không phải ai cũng có thể nắm bắt và đặt trúng vấn đề. Nhưng cũng phải thấy rằng một cách gián tiếp thì cử tri và đại biểu Quốc hội rất quan tâm đến vấn đề KHCN như tại sao đầu tư công của chúng ta hiệu quả thấp, tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được khắc phục, chất lượng hàng hóa tính cạnh tranh thấp, chất lượng vật tư nông nghiệp không được kiểm soát, vệ sinh thực phẩm không được bảo đảm, tình trạng ùn tắc và tai nạn giao thông chưa được khắc phục...
Để giải quyết được tất cả những vấn đề này đều cần đến KH-CN. Nếu hiểu như vậy thì KH-CN đã và đang trở thành trung tâm của các thảo luận rồi. Tuy nhiên, trong thời gian tới Quốc hội cần phải có các hình thức thảo luận và giám sát sâu hơn các chỉ tiêu như tốc độ đổi mới KH-CN việc đảm bảo các yêu cầu công nghệ trong các dự án đầu tư và phát triển, việc bảo đảm ngân sách và các cơ chế huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho KHCN, các căn cứ khoa học của các chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội... Chắc chắn những vấn đề này sẽ làm nghị trường thêm sôi động.
Chúng tôi rất mong những đóng góp và giám sát của cư tri về vấn đề đã nêu.
|
|
-Được biết, Viện NC Cơ khí là một trong số rất ít các viện nghiên cứu chuyển đổi sang mô hình tự chủ và đạt được nhiều thành công, là “điểm sáng” trong hoạt động chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) vào thực tiễn cuộc sống. Vậy, thưa TS, mô hình mới này khác gì so với mô hình cũ, có những thuận lợi và khó khăn gì? Viện đã đạt được những kết quả cụ thể ra sao? - (Lê Văn Dũng, 38 tuổi, Nam , Sóc Sơn, Hà Nội)
Ông Nguyễn Chỉ Sáng: Trước hết xin bạn bỏ cho tôi danh hiệu “điểm sáng” mà ghi nhận Viện Nghiên cứu Cơ khí vẫn tồn tại và phát triển là tôi rất cám ơn rồi!
Thực ra, Viện tôi chuyển đổi sang mô hình tổ chức nghiên cứu khoa học tự trang trải kinh phí theo Nghị định 115 từ cuối năm 2006. Theo mô hình này, hoạt động của Viện có nhiều thuận lợi, nhưng ở đây tôi chỉ đề cập đến 2 điểm chính sau.
Trước hết là về hoạt động, ngoài chức năng nghiên cứu chúng tôi còn hoạt động như một công ty chuyên về tư vấn, thiết kế, tổng thầu. Khi chưa chuyển đổi thì chúng tôi không có chức năng pháp lý đầy đủ để hành nghề. Sau khi chuyển đổi, khó khăn này đã được tháo gỡ, chúng tôi đã có đăng ký kinh doanh tại Sở KH- ĐT Hà Nội như một doanh nghiệp.
Thứ hai là về các cơ chế tài chính, quyền tự chủ theo Nghị định giúp chúng tôi có quyền sử dụng tài sản được Nhà nước giao để bảo lãnh ngân hàng, vay vốn để thực hiện các hợp đồng kinh tế. Ngoài ra, Viện có thể tự xác định mức lương cho các cán bộ của Viện tạo điều kiện đảm bảo được đời sống của cán bộ nghiên cứu, thu hút được nhân tài
Sau chuyển đổi, với những thuận lợi kể trên Viện đã có những phát triển đáng ghi nhận như thay đổi quy mô, hình thức hoạt động của Viện; doanh thu tăng từ vài chục tỷ đồng lên vài trăm tỷ đồng; có điều kiện để ứng dụng nhiều hơn vào thực tế….
-Một trong những cái vướng lớn nhất mà KH-CN đang gặp phải đó là vấn đề các tổ chức KH-CN chưa thật sự được giao quyền tự chủ. Và được biết, Bộ KH-CN cũng đang giải quyết bài toán giao quyền tự chủ cho các tổ chức KH&CN. Hiện nay, chúng ta đã làm được những gì và kết quả đến đâu? - (Th.S Nguyễn Thị Bích Hường, 38 tuổi, Nữ , Quy Nhơn, Bình Định)
Ông Trần Văn Tùng: Việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm với các tổ chức KH-CN công lập là một định hướng mà Bộ KH-CN cùng các Bộ, ngành đang tập trung triển khai trong thời gian qua. Về mặt chính sách, chính phủ đã ban hành Nghị định 115, Nghị định 96 quy định về giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Bộ KH-CN đã phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính xây dựng các thông tư hướng dẫn các nghị định nói trên.
Trong thời gian qua, nhiều tổ chức KH-CN khi thực hiện cơ chế này đã tỏ ra hoạt động có hiệu quả và hết sức năng động. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được thương mại hóa, một số sản phẩm đã được hình thành và trở thành phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ của tổ chức KH-CN. Điều này góp phần nhanh chóng chuyển giao các kết quả nghiên cứu vào đời sống và đồng thời có điều kiện tăng thu nhập cho cán bộ KH-CN tại đơn vị.
Một số tổ chức KH-CN đã mạnh dạn chuyển sang hoạt động theo cơ chế của doanh nghiệp KH-CN và đã có doanh thu lớn, giúp thu nhập của cán bộ được cải thiện rõ rệt, như mô hình của Viện Máy và dụng cụ (Viện IMI), mô hình của Trung tâm giống gia cầm Thụy Phương thuộc Viện Chăn nuôi...
Thưa quý độc giả, mặc dù còn nhiều câu hỏi do độc giả gửi đến cho các vị khách mời, nhưng do thời gian buổi giao lưu có hạn nên chúng tôi thành thật xin lỗi và xin phép được chuyển các câu hỏi còn lại đến các khách mời. Một lần nữa xin cảm ơn quý vị khách mời và quý độc giả.