Tiết kiệm chi phí cho bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm; tăng tỷ lệ phôi sống sau rã đông 99% và hình thành đội ngũ nghiên cứu lành nghề trong lĩnh vực thu tinh trong ống nghiệm,…đó là những thành tựu quan trọng, nổi bật nhất mà PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan và các cộng sự thuộc Khoa Y Dược, trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh đạt được với công trình nghiên cứu so sánh việc chuyển phôi trữ với chuyển phôi tươi với các bệnh nhân không có hội chứng buồng trứng đa nang. Công trình nghiên cứu được đề cử nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020.
Phóng viên (PV) đã có cuộc trao đổi với PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan để hiểu rõ hơn về công trình này cũng như các vấn đề liên quan.
PV: Xin bà tóm tắt một số nét mới về công trình nghiên cứu?
- PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan: Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên trên thế giới chứng minh việc chuyển phôi đông lạnh có hiệu quả tương đương với chuyển phôi tươi trên bệnh nhân thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm mà không bị hội chứng buồng trứng đa nang. Trước đây trên thế giới thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm luôn phải chuyển phôi tươi bởi vì kỹ thuật đông lạnh phôi chưa có hiệu quả. Đồng thời, việc chuyển phôi tươi như khiến nhiều bệnh nhân có thể bị quá kích buồng trứng hoặc nhiều bệnh nhân có thể bị đa thai do mình phải chuyển nhiều phôi trong một lần chuyển phôi. Dần về sau những nghà nghiên cứu đã tìm ra được kỹ thuật đông lạnh phôi
Năm 2016, tại Trung Quốc, một nhóm nghiên cứu đã chứng minh được rằng, chuyển phôi đông lạnh có hiệu quả tốt hơn chuyển phôi tươi ở bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm mà không bị hội chứng buồng trứng đa nang. Tuy nhiên, nhóm bệnh nhân buồng trứng đa nang là nhóm nhỏ người đi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. Còn với công trình nghiên cứu của tôi cùng các cộng sự là thực hiện trên nhóm bệnh nhân đại trà, tức là đa số bệnh nhân khi đi thụ tinh trong ống nghiệm luôn có câu hỏi là nên chuyển phôi đông lạnh hay chuyển phôi tươi thì nhóm nghiên cứu đã trả lời được câu hỏi này.
PV: Ý nghĩa của công trình nghiên cứu cũng như những đóng góp nổi bật của công trình là gì, thưa bà?
- Khi công trình được công bố trên tạp chí The New England Journal of Medicine (NEJM) đã góp phần làm thay đổi thực hành thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới, tức là không cần thực hiện chuyển phôi tươi tất cả các bệnh nhân khi đi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm, chúng ta có thể đông lạnh phôi lại và giảm số phôi chuyển xuống, mỗi lần chỉ cần chuyển một phôi. Phương pháp này giảm nguy cơ kích thích buồng trứng, giảm nguy cơ đa thai cho bệnh nhân.
Cùng với đó là cũng không cần thực hiện chuyển phôi đông lạnh cho tất cả các bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm bởi việc chuyển phôi đông lạnh toàn bộ như vậy sẽ làm tăng thêm chí phí cũng như kéo dài hơn thời gian điều trị cho bệnh nhân.
Mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 triệu trường hợp có nhu cầu thụ tinh trong ống nghiệm và có khoảng 3 triệu trường hợp thực hiện chuyển phôi. Tại Việt Nam, mỗi năm ước tính có khoảng 30.000 trường hợp thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm và 40.000 trường hợp thực hiện chuyển phôi thì việc tìm ra được câu trả lời cho nhóm bệnh nhân lớn nhất khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm giúp cho bác sĩ cũng như bệnh nhân có định hướng thực hiện việc chuyển phôi đem lại hiệu quả cao nhất cho chu kỳ điều trị của mình.
Đóng góp tiếp theo cần phải kể đến là việc triển khai thành công kỹ thuật thủy tinh hóa trong thực hiện đông lạnh phôi. Đây là một quy trình kỹ thuật khá mới mẻ nâng cao tỷ lệ sống của phôi sau rã đông, cao đến khoảng 99%.
Công trình đã xây dựng được đội ngũ thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng một cách chuẩn mực, theo đúng chuẩn quốc tế. Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã kết hợp với nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới như Úc. Đồng thời, chúng tôi còn có đội ngũ giám sát an toàn dữ liệu gồm các giáo sư người Hà Lan, người Anh. Quá trình làm việc cùng với đội ngũ quốc tế như vậy đã cải thiện chất lượng của nghiên cứu và đội ngũ nghiên cứu của chúng tôi cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm và chúng ta có thể tự tin đội ngũ nghiên cứu người Việt Nam triển khai được những công trình nghiên cứu có chất lượng cao, công bố trên những tạp chí quốc tế có những chỉ số tác động cao.
PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan (đứng bên phải) trong ngày nhận Quyết định bổ nhiệm Phó Khoa Y, trường Đại hoc Y dược TP. Hồ Chí Minh
PV: Vậy trong quá trình nghiên cứu chắc hẳn không tránh khỏi những khó khăn, bà có thể chia sẻ điều này với bạn đọc? Theo bà, đâu là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu?
- Thời kỳ đầu tôi cũng gặp nhiều khó khăn, thử thách. Tôi có công bố quốc tế đầu từ năm 2008, ở thời điểm đó đây là lĩnh vực mới, chưa có nhiều thông tin về công bố quốc tế vì vậy tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn. Thứ nhất là do mình chưa quen với quy trình xét duyệt của các tạp chí, do đó khả năng bài nghiên cứu bị từ chối rất cao. Bài đầu tiên tôi phải gửi 3 tạp chí mới có tạp chí chấp nhận đăng vì các tạp chí này có tiêu chuẩn kiểm duyệt khắt khe.
Theo tôi nghĩ khó khăn lớn nhất trong nghiên cứu khoa học là chất lượng nghiên cứu. Khi mà chúng ta nghĩ đến nghiên cứu, nghĩ đến một vấn đề gì đó cần nghiên cứu thì cách chúng ta tổ chức như thế nào cho thật chất lượng để trả lời được câu hỏi đặt ra trong vấn đề cần nghiên cứu. Trong hoàn cảnh khó khăn tại Việt Nam như vấn đề kinh phí cho nghiên cứu, vấn đề nhân sự, quỹ thời gian dành cho nghiên cứu, thí dụ như nghiên cứu trong trường đại học thì có quy định về giờ nghiên cứu,…nên cũng nhiều áp lực khác nhau.
Thêm một khó khăn nữa là sự hợp tác giữa các nhóm nghiên cứu. Ở Việt Nam, sự hợp tác này cũng chưa thực sự đồng bộ, chưa được thật tốt. Để theo đuổi được nghiên cứu khoa học theo tôi có nhiều yếu tố nhưng yếu tố quan trọng nhất là động lực làm nghiên cứu, một khi mình đã có động lực đủ lớn, đủ ý nghĩa chắc chắn các khó khăn còn lại sẽ vượt qua.
PV: Trân trọng cảm ơn bà!
Bài: Hoàng Anh
Ảnh: Internet