Năm 2012, lần đầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức trao giải thưởng Bông lúa vàng Việt Nam tặng các tập thể và cá nhân có những sản phẩm khoa học, công nghệ hữu ích vì sự phát triển của nền nông nghiệp nước nhà. Tuy nhiên, để khoa học, công nghệ thật sự là điểm tựa cho nông nghiệp phát triển bền vững, cần sự đổi mới căn bản về cơ chế quản lý, cũng như những chính sách đồng bộ.
Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) đã tiếp tục được khẳng định là quốc sách hàng đầu, là một động lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết Trung ương 6 về phát triển KH&CN. Đây là điều kiện và thời cơ rất thuận lợi cho KH&CN phát triển. Tuy nhiên, cần có những cơ chế, chính sách để cụ thể hóa và quán triệt nội dung của Nghị quyết.
Trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay, việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài, đặc biệt là sử dụng nhân tài trong nghiên cứu và ứng dụng KHCN có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển đất nước. Và để có đội ngũ cán bộ KHCN hùng hậu kế cận, cần có chính sách đồng bộ từ đào tạo đến trọng dụng và đãi ngộ.
Gần đây, "huyết tâm thư" của GS Nguyễn Văn Thuận (đang giảng dạy tại ĐH Konkuk, Hàn Quốc) với tâm sự mong được sớm trở về phục vụ quê hương, đất nước sau nhiều năm đi "xây nhà hàng xóm" đã nhận được nhiều ý kiến khác nhau.
Theo tính toán của một nhóm nghiên cứu, từ năm 2000 - 2011, chỉ số lan tỏa và độ nhạy của ngành khoa học, công nghệ đều phát triển ởã mức thấp, thậm chí giảm hơn so với giai đoạn 5 năm trướác. Hai chỉ số này cho thấy, khoa học, công nghệ chưa tác động tích cực đến những ngành khác. Như vậy có nên phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2020 sẽ có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến, hiện đại của khu vực ASEAN tại Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ 2011 – 2020 không? Hay trước hết cần phấn đấu để tăng mức ảnh hưởng của ngành này đến các ngành, lĩnh vực khác?
Chiều 20/11, Quốc hội thảo ở hội trường về Luật Khoa học Công nghệ. Việc sửa đổi, bổ sung luật này được xem là bước cơ bản tạo dựng nền tảng pháp lý giải quyết những bất cập, vướng mắc đang cản trở sự phát triển của khoa học công nghệ trong thời gian qua, thu hút nhiều hơn sự tham gia của xã hội đầu tư vào lĩnh vực này.
Việc luôn dành 2% tổng ngân sách Nhà nước cho khoa học, công nghệ đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến lĩnh vực này. Nhưng có thể thấy, nếu chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước thì sẽ khó tạo sự chuyển đổi căn bản cho lĩnh vực này. Thực tế, tại các quốc gia phát triển trên thế giới, nguồn lực ngoài Nhà nước mới chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong tổng vốn đầu tư vào khu vực này.
Thảo luận về dự án Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi), các ý kiến đều tán thành sự cần thiết phải sửa đổi luật bởi hiện nay, dù ngân sách Nhà nước đã đầu tư không ít và coi khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu, động lực để phát triển KT – XH nhưng năng lực khoa học, công nghệ nước ta vẫn còn thấp.
Luật KH&CN hiện nay đuợc ban hành từ năm 2000 với vị trí là đạo luật cơ bản về lĩnh vực KH&CN trong những năm qua đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng để triển khai thực hiện mọi mặt hoạt động KH&CN.
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện, Luật KH&CN năm 2000 đã bộc lộ nhiều bất cập, không còn phù hợp với điều kiện mới. Việc sử dụng cán bộ KH&CN và trọng dụng người tài; cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KH&CN; huy động nguồn đầu tư từ xã hội cho hoạt động KH&CN... còn nhiều vướng mắc.
Gần như tất cả các phát biểu tại nghị trường ngày 20.11 trong phiên thảo luận dự án Luật Khoa -công nghệ sửa đổi đều đã nhắc đến điểm nghẽn “cơ chế tài chính” cho khoa học- công nghệ.
Ðổi mới cơ chế quản lý tài chính khoa học và công nghệ (KH và CN) cần phải được đổi mới cơ bản và toàn diện, đồng bộ với các nội dung khác của cơ chế quản lý KH và CN, nhằm tạo điều kiện và "cởi trói" cho KH và CN phát triển. Theo chúng tôi, nội dung này cần phải được quán triệt và quy định ngay trong dự thảo Luật KH và CN (sửa đổi).