Mặc dù có nguồn lưu trữ bản mô tả sáng chế của các nước tương đối lớn, nhưng các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp Việt Nam gần như chưa sử dụng, chưa biết cách khai thác để phục vụ hoạt động nghiên cứu – triển khai và ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh.
Vậy làm thế nào để hoạt động khai thác, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, sáng chế ở Việt Nam khởi sắc?
Vì đâu nên nỗi…
Theo TS. Phùng Minh Lai – Viện trưởng Viện nghiên cứu sáng chế và khai thác công nghệ, nhằm rút ngắn khoảng cách về trình độ công nghệ đối với các nước phát triển, các nước đang phát triển đã lựa chọn nhiều giải pháp “đi tắt, đón đầu” để sớm trở thành một nước mạnh về công nghệ như: hoạt động R&D, nhập khẩu công nghệ, chuyển nhượng Lixăng công nghệ, khai thác kho sáng chế quốc gia và quốc tế để với tới công nghệ nguồn,… Trong đó giải pháp tìm ra các bí quyết công nghệ (từ kho sáng chế quốc gia hoặc kho sáng chế quốc tế) phù hợp từ các sáng chế là con đường ngắn và hiệu quả nhất.
Trong khi đó, tại Việt Nam, ở Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) đang lưu trữ trên 30 triệu bản mô tả sáng chế của các nước, đó là nguồn tri thức/bí quyết công nghệ quý báu nhưng chưa được khai thác, nghiên cứu, áp dụng. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp Việt chưa biết đến “kho báu” này nên chưa khai thác để phục vụ hoạt động nghiên cứu- triển khai và ứng dụng vào sản xuất kinh doanh.
Đại diện Cục SHTT cho rằng, một số doanh nghiệp đã quan tâm đến việc đăng ký sáng chế cũng như áp dụng sáng chế của mình vào thực tiễn. Tuy nhiên, việc làm này chưa thực sự ổn định và số lượng các doanh nghiệp như vậy chưa nhiều; Thường là do sự sáng tạo xuất sắc của một vài cá nhân trong công ty chứ không phải là nỗ lực của toàn bộ doanh nghiệp, hầu như chỉ là sự sáng tạo đơn lẻ của các cá nhân mà chưa có được sự đầu tư cũng như có tổ chức bài bản.
Một thực trạng đáng lo là hiện nay chưa có nhiều các doanh nghiệp Việt quan tâm đến việc ứng dụng khoa học công nghệ nói chung và các sáng chế nói riêng của các nhà khoa học, các nhà sáng tạo cá nhân vào thực tiễn. Điều này cho thấy, nhu cầu áp dụng sáng chế từ bên ngoài của các doanh nghiệp còn rất hạn chế.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt chỉ mua các máy móc, thiết bị (chủ yếu từ nước ngoài) để sản xuất sản phẩm theo công nghệ kèm theo mà không quan tâm đến việc hợp tác, đặt hàng các nhà khoa học từ các trường đại học/viện nghiên cứu và các nhà sáng tạo cá nhân hoặc khuyến khích các cán bộ của mình cải tiến sản phẩm, tạo ra sản phẩm mới.
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt hầu như chưa thực sự quan tâm và cũng không thực sự có nhu cầu khai thác, áp dụng sáng chế vào sản xuất, kinh doanh cũng như nghiên cứu triển khai. Thêm vào đó, tâm lý sợ lộ “bí quyết”, “bí mật” cũng là một trở ngại lớn trong việc đăng ký sáng chế và từ đó ảnh hưởng đến khả năng khai thác thương mại của sáng chế.
Một trong những ví dụ rõ nét về thực trạng này là trong chợ Công nghệ và thiết bị quốc tế Việt Nam 2012 (Techmart 2012) rất nhiều sản phẩm công nghệ do nông dân sáng tạo ra có khả năng khai thác, ứng dụng cao. Tuy nhiên, các nhà sáng tạo là nông dân hầu hết đều không được đào tạo qua các lớp chuyên môn kỹ thuật.
Họ chỉ đơn thuần nghiên cứu để giải quyết vướng mắc trong quá trình sản xuất nông nghiệp của chính cá nhân mình chứ không phải vì mục tiêu thương mại nên hầu hết các sáng chế, giải pháp này mới chỉ được áp dụng trong phạm vi hộ gia đình và địa phương nơi họ sinh sống, và ít được đăng ký bảo hộ sáng chế cũng như đưa ra khai thác, áp dụng rộng rãi để thu lợi nhuận cho nhà sáng tạo.
Chính vì thế mà các nhà sáng tạo cá nhân này rất vất vả để tìm cách áp dụng sáng chế của mình vào thực tiễn và rất ít trường hợp hợp tác được với doanh nghiệp để áp dụng sáng tạo của họ vào thực tiễn.
Cần sự liên kết giữa “Ba nhà”
Theo số liệu thống kê tính đến tháng 12/2011 của Cục SHTT cho thấy tổng số văn bằng bảo hộ sáng chế (SC)/giải pháp hữu ích (GPHI) được cấp ra cho chủ đơn Việt Nam là 1.034, trong đó SC là 458 văn bằng, chiếm 44%, GPHI là 576 văn bằng, chiếm 56%. Từ thực tế trên có thể thấy số giải pháp kỹ thuật được tạo ra của các tác giả Việt Nam được bảo hộ ở dạng GPHI nhiều hơn là SC. Hơn nữa các sáng chế cũng có rất ít những sáng chế “gốc” nên giá trị kinh tế trong ứng dụng là chưa cao.
Doanh nghiệp, các trường đại học, viện nghiên cứu là những chủ thể có khả năng thuận lợi nhất, đồng thời cũng có nhu cầu nhiều nhất trong việc khai thác, áp dụng sáng chế. Trong khi đó số lượng bằng độc quyền sáng chế của các chủ thể này lại không nhiều, đây cũng là một lý do lý giải tại sao hoạt động khai thác, áp dụng sáng chế của Việt Nam còn hạn chế.
Để thúc đẩy hoạt động khai thác thương mại kết quả nghiên cứu, sáng chế ở Việt Nam, TS. Phạm Hồng Quất – Phó Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp Khoa học công nghệ cho rằng, cần tăng cường mối liên kết 3 nhà “Nhà nước – Nhà nghiên cứu – Doanh nghiệp” bằng 2 hình thức gồm: Khai thác trực tiếp (Nhà nghiên cứu mở doanh nghiệp, trực tiếp ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất, Doanh nghiệp và nhà sáng chế cùng đầu tư cho nghiên cứu, đổi mới công nghệ, hoàn thiện công nghệ, cùng khai thác kết quả.
Hay doanh nghiệp mua kết quả nghiên cứu, sáng chế đã hoàn thiện trực tiếp từ nhà sáng chế, áp dụng vào sản xuất) và khai thác qua các dịch vụ trung gian (Các tổ chức trung gian như chợ công nghệ, sàn giao dịch công nghệ, các trung tâm ứng dụng, ươm tạo,… thúc đẩy hoạt động giao dịch thương mại, mua bán bản quyền, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu, sáng chế giữa doanh nghiệp và nhà nghiên cứu, nhanh chóng đưa kết quả nghiên cứu, sáng chế đến doanh nghiệp để các doanh nghiệp áp dụng vào đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất).
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần thể hiện vai trò trong hỗ trợ khai thác sáng chế qua việc tạo môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách, đầu tư, định hướng phát triển nghiên cứu; vai trò kích thích và áp chế để doanh nghiệp đổi mới công nghệ thông qua khai thác ứng dụng kết quả nghiên cứu cũng như hỗ trợ, thúc đẩy các hoạt động khai thác thương mại kết quả nghiên cứu sáng chế. Có như vậy, hoạt động khai thác, áp dụng sáng chế của Việt Nam mới có cơ hội rút ngắn khoảng cách về trình độ công nghệ đối với các nước phát triển.
Bài, ảnh: Trần Hồng