Sau 15 năm thực hiện Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020, hoạt động nghiên cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đã có những kết quả và bước tiến đáng kể, có đóng góp trực tiếp và hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực.
Sáng 29/12, tại Hà Nội, Cục Năng lượng nguyên tử đã tổ chức Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020. Tham dự Hội nghị có Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Phạm Công Tạc, trên 100 đại biểu bao gồm các thành viên Hội đồng Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia, đại diện lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương; các chuyên gia, nhà khoa học; đại diện các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng và một số doanh nghiệp lớn liên quan đến lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Hội nghị nhằm tổng kết, đánh giá kết quả 15 năm thực hiện Chiến lược, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân, đề xuất định hướng phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử trong giai đoạn 2021-2030.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Phạm Công Tạc cho biết, sau 15 năm thực hiện Chiến lược, có thể thấy nhu cầu năng lượng và ứng dụng bức xạ, đồng vị phóng xạ, công nghệ hạt nhân đã ở một trạng thái khác. Từ các ngành y tế, công nghiệp, nông nghiệp, và các ngành kinh tế kỹ thuật khác... đều thấy vai trò của năng lượng nguyên tử. Tuy đã có nhiều kết quả nổi bật nhưng vẫn chưa được như kỳ vọng. Vì vậy, Thứ trưởng Phạm Công Tạc cho rằng, vấn đề cần đặt ra trong giai đoạn tới là Việt Nam cần tập trung sản xuất gì để ứng dụng bức xạ, đồng vị phóng xạ hiệu quả hơn nữa. Bộ KH&CN cùng các bộ, ngành sẽ tổng hợp các ý kiến trình Chính phủ phương án phát triển năng lượng nguyên tử tại Việt Nam trong giai đoạn tới.
TS. Trần Bích Ngọc, Phó Cục trưởng phụ trách Cục Năng lượng nguyên tử
Tại Hội nghị, TS. Trần Bích Ngọc - Phó Cục trưởng phụ trách, Cục Năng lượng nguyên tử, Cơ quan thường trực của Hội đồng Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia đã trình bày báo cáo tổng hợp kết quả 15 năm thực hiện Chiến lược và các báo cáo, tham luận của đại diện một số cơ quan, đơn vị.
TS. Trần Bích Ngọc cho biết, sau 15 năm thực hiện Chiến lược, hoạt động nghiên cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đã có những kết quả và bước tiến đáng kể, có đóng góp trực tiếp và hiệu quả cho phát triển kinh tế -xã hội trên nhiều lĩnh vực . Việt Nam đã ký kết các hiệp định hợp tác trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử với các đối tác quan trọng (Nhật, Pháp, Mỹ) và tham gia hầu hết các điều ước quốc tế trong lĩnh vực an toàn, an ninh, không phổ biến vũ khí hạt nhân; hình thành hành lang pháp lý và hệ thống quản lý trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử như một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và hàng loạt cơ chế, chính sách, đề án, kế hoạch, dự án đã được xây dựng và tổ chức thực hiện.
Lĩnh vực y tế thể hiện rõ nhất các ứng dụng như y học hạt nhân, xạ trị điện quang. Đến cuối năm 2020, cả nước có 40 cơ sở y học hạt nhân, chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn. Về trang thiết bị có khoảng 52 thiết bị xạ hình (khoảng 40 máy SPECT và SPECT/CT, 12 PET/CT)... được đầu tư, đạt tỷ lệ khoảng 0,55 máy/1 triệu dân.
GS.TS. Mai Trọng Khoa, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, tốc độ phát triển các hệ thống ghi hình tích hợp (hybrid imaging) như SPECT/CT, PET/CT... của Việt Nam cao nhất khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Các kỹ thuật xạ hình bằng SPECT&SPECT/CT đối với ung thư và di căn, các bệnh tim mạch, hệ tiêu hóa, xương khớp, hô hấp… đã và đang được thực hiện có kết quả cho hàng nghìn bệnh nhân mỗi năm. Kỹ thuật xạ hình PET/CT đã trở thành kỹ thuật thường quy trong chẩn đoán-điều trị các bệnh về ung thư, tim mạch và thần kinh tại Việt Nam.
Trong xạ trị, các thiết bị gia tốc xạ trị, xạ trị áp sát liều cao, phẫu xạ hiện đại của thế giới cũng được đầu tư lắp đặt ở Việt Nam. Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ gia tốc đã giúp cho phương pháp xạ trị đạt được hiệu quả và có nhiều ưu thế trong trị liệu ung thư.
Ở lĩnh vực nông nghiệp, theo TS. Lê Đức Thảo, Phó Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, chọn tạo giống bằng phương pháp chiếu xạ gây đột biến đã có sự phát triển đáng kể bằng việc tạo ra và đưa vào sản xuất nhiều loại giống cây trồng như lúa, ngô, đậu tương có năng suất cao, phẩm chất tốt; hình thành mạng lưới với 10 cơ sở nghiên cứu chọn tạo giống tập trung ở miền Bắc và miền Nam, trong đó 8 cơ sở đã có giống đột biến phóng xạ được đăng ký và đưa vào trong sản xuất.
Đến cuối năm 2020, Việt Nam đã tạo ra và đưa vào trong sản xuất 71 giống cây trồng đột biến bằng phương pháp chiếu xạ, trong đó chủ yếu là giống lúa còn lại là một số giống khác như đậu tương, ngô, hoa, táo, bạc hà (54 giống lúa, 16 giống đậu tương, 10 giống ngô, hoa, táo, bạc hà).
Các giống lúa được chọn tạo bằng phương pháp đột biến phóng xạ đã mang lại hiệu quả kinh tế to lớn trong việc bảo đảm an ninh lương thực.
Trong lĩnh vực công nghiệp, có 1.600 cơ sở tiến hành công việc bức xạ, chiếm khoảng 60% tổng số cơ sở tiến hành công việc bức xạ (không bao gồm cơ sở sử dụng thiết bị điện quang) trên cả nước, sử dụng 3.500 nguồn phóng xạ, 3.200 thiết bị phát tia X.
Toàn cảnh Hội nghị
Trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia đã dần được hình thành với Trạm điều hành và trạm vùng tại Hà Nội được đặt ở Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân, các thiết bị online đo phóng xạ đã được lắp đặt tại một số trạm địa phương (Móng Cái, Bãi Cháy, Lạng Sơn, Hà Nội, Hải Phòng, Đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Cao Bằng, Lào Cai, Sơn La, Nghệ An, Đà Nẵng). Hàng năm công tác cập nhật và bổ sung số liệu quan trắc phóng xạ môi trường tại các trạm được thực hiện nhanh chóng và chính xác, bảo đảm kịp thời phát hiện diễn biến bất thường về bức xạ trên lãnh thổ Việt Nam và hỗ trợ việc chủ động ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân.
Kỹ thuật thủy văn đồng vị đã được ứng dụng để nghiên cứu đánh giá nguồn gốc, tuổi, lượng bổ cấp, vận tốc chảy, hướng chảy, lưu lượng, độ phân tán, thời gian lưu, nguồn gốc ô nhiễm, tình trạng ô nhiễm và khả năng mặn hoá các nguồn nước ngầm cho khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số tỉnh phía Nam. Đã xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu và bản đồ phân bố mật độ tồn lưu về các đồng vị phóng xạ nhân tạo sống dài, độc tính sinh học cao trong môi trường biển ở phía Nam Việt Nam; xây dựng được Quy trình phân tích đồng thời các đồng vị thuộc nhóm Actinides trong mẫu môi trường. Tháng 4/2019, Trung tâm hợp tác vùng với IAEA về nước và môi trường đặt trụ sở tại Trung tâm Đào tạo hạt nhân được khánh thành và đi vào hoạt động.
Tại Hội nghị, các nhà quản lý và chuyên gia đã đánh giá kết quả thực hiện 08 giải pháp của Chiến lược, bao gồm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách, hoạt động nghiên cứu - triển khai, đảm bảo an toàn và an ninh, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế... trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Đồng thời cũng đã chỉ ra một số khó khăn, hạn chế như một số chỉ tiêu được đặt ra trong các quy hoạch nhưng chưa có nguồn lực đầu tư xây dựng và phát triển các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng, các phòng thí nghiệm với các thiết bị bức xạ, thiết bị hạt nhân hiện đại; nguy cơ thiếu hụt lực lượng chuyên gia cho một số hướng nghiên cứu, ứng dụng quan trọng; chưa có chương trình quốc gia về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Trao tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho các tập thể, cá nhân có nhiều đóng góp nổi bật trong ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế-xã hội
Nhân dịp này, Bộ KH&CN đã trao tặng Bằng khen của Bộ trưởng cho 15 tập thể và 8 cá nhân; Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp khoa học và công nghệ“ cho 01 cá nhân có nhiều đóng góp nổi bật trong ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Bài, ảnh: Phương Nga, Văn Nguyên