Banner TOP trái 1
Banner TOP phải 3
Chính sách KH&CN Thứ bảy, 23/11/2024 , 12:26 pm
Cập nhật : 22/11/2012 , 10:11(GMT +7)
Tháo gỡ “điểm nghẽn” không phải là nêu tên chính sách mà là thực hiện như thế nào
Thảo luận về dự án Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi), các ý kiến đều tán thành sự cần thiết phải sửa đổi luật bởi hiện nay, dù ngân sách Nhà nước đã đầu tư không ít và coi khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu, động lực để phát triển KT – XH nhưng năng lực khoa học, công nghệ nước ta vẫn còn thấp.

Trong dự thảo Luật đã có nhiều quan điểm mới để tháo gỡ những “điểm nghẽn” hiện nay trong lĩnh vực này nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nêu tên chính sách, việc thực hiện các chính sách này như thế nào ít được đề cập. Do vậy, cần thay đổi cách thức tiếp cận khi xây dựng dự thảo. Khoa học, công nghệ phải phục vụ được công cuộc CNH – HĐH; nghiên cứu áp dụng một cơ chế như cơ chế Khoán 10 trong nông nghiệp cho khoa học, công nghệ.

ĐBQH Ma Thị Thúy (Tuyên Quang): Cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ người dân sáng tạo và ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp
 

Điều 8, nhiệm vụ khoa học, công nghệ kỹ thuật trong luật đã tách bạch hoạt động về lĩnh vực khoa học, công nghệ, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên. Tại Khoản 2 có quy định đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ trong một số lĩnh vực có ý nghĩa thiết yếu, phù hợp với điều kiện và nhu cầu của đất nước. Chúng ta có các lĩnh vực nông nghiệp, y dược và chăm sóc sức khỏe năng lượng, đặc biệt là năng lượng chế tạo, quản lý sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên công nghệ môi trường, công nghệ vũ trụ, quy định như vậy là phù hợp. Tuy nhiên, còn một lĩnh vực nữa rất quan trọng tác động đến đời sống người dân và phát triển chiều sâu của đất nước đó là lĩnh vực công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm chưa thấy thể hiện trong dự thảo Luật. Nước ta là nước nông nghiệp, sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu hiện nay chủ yếu ở dạng sản phẩm thô, do đó việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào quản lý, bảo quản và chế biến các nông phẩm mang tính quyết định nhằm nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm của nông nghiệp. Vì vậy, tôi đề nghị Ban soạn thảo cần bổ sung một số đối tượng công nghiệp chế biến và bảo quản sản phẩm nông nghiệp. Đây là nội dung rất cần thiết trong việc phát triển nguồn nguyên liệu của địa phương. Hơn nữa luật cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ người dân sáng tạo và ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.

Về tiêu chí lựa chọn và việc lựa chọn chuyên gia tham gia các hội đồng tư vấn để xác định tuyển chọn tổ chức cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, việc đánh giá kết quả nghiên cứu còn bất cập, chưa xây dựng được các tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng và hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ nói chung và các tổ chức khoa học và công nghệ nói riêng; công tác đánh giá kết quả nghiên cứu chưa tương thích với các chuẩn mực quốc tế. Trong dự thảo Luật không có những quy định cụ thể về tiêu chí để lựa chọn chuyên gia tham gia Hội đồng tư vấn hay tiêu chí đánh giá chất lượng hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ. Do vậy tôi đề nghị, thứ nhất, về thẩm quyền và trách nhiệm xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ nên do các bộ, ngành, UBND các tỉnh đề xuất nhằm phục vụ mục tiêu phát triển ngành, địa phương và đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đơn vị. Thứ hai, về tổ chức thực hiện nghiên cứu khoa học, tại Mục 2, Điều 27 cần thể hiện rõ mối quan hệ giữa tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ với cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ và tổ chức cá nhân sử dụng kết quả nghiên cứu các bộ, ngành, địa phương theo phân công của Chính phủ. Thứ ba, để bảo đảm chất lượng hiệu quả của kết quả nghiên cứu tại các cấp nên bỏ chế độ Hội đồng nghiệm thu cho từng nhiệm vụ thay bằng Ban kỹ thuật khoa học của mỗi lĩnh vực chuyên sâu. Ban này gồm các chuyên gia uy tín, được hưởng lương do cơ quan quản lý khoa học và công nghệ chi trả, làm việc theo nhiệm kỳ 5 năm với số lượng cố định… Thứ tư, về quyền sở hữu và sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cần quan niệm kết quả nghiên cứu là sản phẩm, là tài sản Nhà nước, do vậy, luật phải quy định rõ việc giao cho ai quản lý, sở hữu, sử dụng. Các tổ chức chủ trì nghiên cứu là bên nhận đặt hàng, nên sau khi nghiên cứu sản phẩm lại giao cho bên nhận đặt hàng là không hợp lý, dẫn đến tình trạng kết quả nghiên cứu không được chuyển giao ứng dụng, khai thác.
 
ĐBQH Nguyễn Văn Cảnh (Bình Định): Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực không mang tính phổ biến ở địa phương thì không tham gia vào các quỹ
 
Theo tôi thì việc quy định trích một phần lợi nhuận trước thuế để đầu tư phát triển khoa học và công nghệ là quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp hoặc đóng góp của quỹ phát triển khoa học và công nghệ của địa phương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính nhằm đổi mới nâng cao trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, là xu thế trong quá trình hội nhập. Để bảo đảm các chính sách khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ đối với doanh nghiệp có hiệu quả thì tùy vào mỗi loại hình doanh nghiệp và lợi thế của địa phương mà Nhà nước có những chính sách phù hợp. Ở Việt Nam, loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 95% tổng số doanh nghiệp, do đó, cần tập trung vào việc chọn chính sách phù hợp đối với loại hình doanh nghiệp này.

Đối với loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa, khi nguồn vốn còn hạn chế thì việc đầu tiên doanh nghiệp cần quan tâm là kinh doanh có lãi trong ngắn hạn, bảo đảm tồn tại trên thị trường, dần dần tích lũy vốn thì mới nghĩ đến lợi ích lâu dài, nghĩ đến cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài và tính đến phát triển bền vững. Vì vậy, đầu tư cho khoa học, công nghệ trong doanh nghiệp cũng chủ yếu dựa trên quan điểm này. Và với doanh nghiệp nhỏ và vừa thì việc trích 10% lợi nhuận trước thuế có thể còn ít hơn thì không thể gọi là đổi mới công nghệ hay ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất có hiệu quả. Vì vậy, theo tôi cần chia ra hai trường hợp để có chính sách phù hợp. Trường hợp thứ nhất là tùy vào lợi thế của từng địa phương mà Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với lĩnh vực ưu tiên phát triển của địa phương mình. Ví dụ, đối với địa phương phát triển nông nghiệp thì thành lập quỹ tập trung nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp. Đối với địa phương khai thác tài nguyên thì thành lập quỹ tập trung vào nghiên cứu công nghệ khai thác tài nguyên đạt hiệu quả cao, tránh lãng phí, thất thoát và giảm thiểu tác hại của môi trường. Đối với địa phương phát triển cây công nghiệp thì lập quỹ phát triển ứng dụng công nghệ bán tự động trong khâu thu hoạch và khâu chế biến thành phẩm. Các quỹ của các lĩnh vực sẽ tập trung nguồn lực để nghiên cứu ứng dụng theo đúng lĩnh vực đã được định hướng và nguồn đóng góp của quỹ chỉ do những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực quỹ hoạt động mới đóng góp thì sẽ không phù hợp nếu một doanh nghiệp thủy sản mà lại đóng góp cho quỹ tập trung phát triển ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp, tránh trường hợp nhiều địa phương thành lập quỹ nghiên cứu đa ngành, nhưng thực chất không có một ngành nào có được một công trình nghiên cứu giá trị. Ngược lại nếu phát triển quỹ chuyên ngành thì một đề tài có giá trị có thể triển khai trên phạm vi cả nước. Vì vậy, tôi đề nghị Ban soạn thảo xem xét để có thể luật hóa nội dung này vào Điều 58 quy định quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, tỉnh, thành trực thuộc Trung ương.

Trường hợp thứ hai là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực không mang tính phổ biến ở địa phương thì không tham gia vào các quỹ. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp này ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào hoạt động sản xuất thì ngoài các chính sách ưu tiên đã nêu trong luật nhà nước sẽ tạo điều kiện cho những năm đầu doanh nghiệp áp dụng công nghệ doanh nghiệp vẫn bảo đảm sức cạnh tranh như trước đây. Lý do doanh nghiệp được hỗ trợ là vì đầu tư cho công nghệ mới sẽ tốn kém và thời gian thu hồi vốn sẽ kéo dài hơn so với công nghệ cũ lại phát sinh nhiều chi phí mới làm tăng giá thành sản phẩm và năng lực cạnh tranh trong những năm đầu.

Theo tôi nghĩ sự hỗ trợ về thuế hay lãi suất là phù hợp vì thay đổi công nghệ không chỉ giúp cho doanh nghiệp phát triển, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia mà còn đem lại nhiều lợi ích cho cộng đồng và xã hội như tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu, tài nguyên quốc gia, giảm lượng chất thải sinh học, chất thải công nghiệp, bảo đảm môi trường nước, không khí, âm thanh tốt hơn cho khu vực xung quanh. Điều này cũng góp phần làm giảm chi ngân sách nhà nước cho việc khắc phục các hậu quả về môi trường sống, về sức khỏe của con người do hậu quả của việc sử dụng công nghệ cũ và lạc hậu để lại. Tôi đề nghị Ban soạn thảo xem xét luật hóa nội dung này vào Điều 61 quy định về đầu tư phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp và Điều 63 quy định về chính sách tín dụng đối với hoạt động khoa học và công nghệ…
 
ĐBQH Phạm Xuân Thăng (Hải Dương): Phải trả lời câu hỏi tại sao dù đã được đầu tư không ít nhưng trình độ khoa học, công nghệ nước ta vẫn thấp
 
Nhìn lại quá trình thực hiện Luật Khoa học và công nghệ năm 2000 có một câu hỏi rất lớn đặt ra là tại sao hơn 10 năm qua chúng ta đã đầu tư không ít cho hoạt động khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ được tăng lên nhanh chóng, các đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ngày càng nhiều, song nếu so với các nước trong khu vực thì trình độ khoa học và công nghệ của nước ta còn thấp, hiệu quả ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào thực tiễn chưa tương xứng với đầu tư; thiếu các công trình khoa học có tầm cỡ khu vực, các sáng chế được đăng ký rất ít. Dự án thảo Luật đã tập trung sửa đổi, bổ sung nhưng nội dung cần thiết nhằm khắc phục những bất cập yếu kém về cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, cơ cấu tổ chức và thị trường khoa học và công nghệ là những “điểm nghẽn” trong hoạt động và khoa học và công nghệ 10 năm qua. Tôi tin rằng việc này sẽ trả lời thỏa đáng câu hỏi nêu trên và thúc đẩy khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.

Để bảo đảm tính thống nhất trong dự thảo Luật, đồng thời thể hiện đúng vị trí của Luật Khoa học và công nghệ là “gốc” của các luật khác trong lĩnh vực này, tại Điều 3 giải thích từ ngữ, đề nghị bổ sung thêm một số khái niệm như nghiên cứu khoa học cơ bản, nghiên cứu ứng dụng phát hiện, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Đây là những khái niệm nền tảng nhất trong hoạt động khoa học, công nghệ được dùng nhiều trong dự thảo Luật nhưng chưa làm rõ khái niệm. Hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các tài liệu, ngay cả trong sách giáo khoa cũng nhầm lẫn một cách phổ biến và thường xuyên các khái niệm nêu trên, nhất là nhầm lần sáng chế với phát minh. Bổ sung các khái niệm này sẽ tạo ra định hướng rõ ràng hơn trong hoạt động khoa học và công nghệ.

Thứ hai, xuất phát từ đặc trưng riêng của hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ như khái niệm đã nêu trong dự thảo Luật cần có cơ chế quản lý khuyến khích ưu đãi có đặc thù riêng. Tuy nhiên, trong dự thảo Luật hầu như chỉ quy định chung cho hoạt động khoa học và công nghệ dễ dẫn tới sự áp dụng cho các chính sách và quy định dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong thực tiễn sẽ gặp khó khăn hoặc không phù hợp. Tôi đề nghị nên có một chương riêng về công nghệ bằng cách nhóm các điều rải rác về hoạt động công nghệ thành một chương có thể lấy tên là phát triển công nghệ để quy định rõ ràng hơn về hoạt động sáng tạo công nghệ, triển khai thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm, công nghệ cao, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đổi mới công nghệ, đầu tư mạo hiểm công nghệ cao; chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, các chính sách ưu tiên cho phát triển công nghệ. Tôi cũng đề nghị nên cân nhắc việc dùng các khái niệm như ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao tại Điều 62. Khái niệm này không rõ ràng, văn nói nhiều hơn là khái niệm chuẩn mực trong dự thảo Luật.

Ba là trong hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động đòi hỏi có sự đầu tư cao cả về thời gian, công sức, trí tuệ, kinh phí, nhưng lại có tính rủi ro cao, lợi nhuận không có hoặc có nhưng không cao. Chính vì vậy, việc bổ sung các quy định ưu đãi khuyến khích cho hoạt động khoa học, công nghệ là hết sức cần thiết. Nhiều quy định ưu tiên đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học, công nghệ đã được bổ sung, tuy nhiên, có nhiều nội dung chưa rõ như tại các Điều 46, 47, 49, 50, 51 đều quy định Nhà nước khuyến khích các hoạt động khoa học và công nghệ, tổ chức và cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ, song không nêu rõ đó là chính sách gì, có giao cho Chính phủ quy định cụ thể hay không mà chỉ nêu chung chung có tính định hướng nghe thì rất hay, nhưng sẽ rất khó thực hiện. Tôi đề nghị cần quy định cụ thể và rõ ràng hơn các ưu đãi đối với các hoạt động khoa học, công nghệ. Đồng thời phải tạo ra sự công bằng cho việc hưởng ưu đãi đó với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập và ngoài công lập. Bên cạnh đó cũng rất cần bổ sung chính sách hỗ trợ khen thưởng đặc biệt đối với các tổ chức, cá nhân có phát minh, sáng chế, việc công nhận đăng ký cấp quốc gia, quốc tế nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ hơn đối với các hoạt động khoa học và công nghệ.
 
ĐBQH Hoàng Thị Tố Nga (Nam Định): Con người là trung tâm, là chủ thể chính trong phát triển khoa học, công nghệ
 

Thứ nhất, về sử dụng nhân lực, trọng dụng nhân tài khoa học kỹ thuật, nếu sửa đổi như Điều 51 thì bản chất nội dung không có gì khác so với Điều 35 của Luật Khoa học và công nghệ năm 2000, chỉ thêm một nội dung là có chính sách khuyến khích việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực nữ trong hoạt động khoa học và công nghệ. Tôi đề nghị cần phải sửa đổi, bổ sung rõ những quy định cụ thể hơn để thu hút trọng dụng nhân tài khoa học và công nghệ, không thể cứ quy định chung chung mang tính chất nghị quyết khẩu hiệu như trong dự thảo Luật.

Mặc dù các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6, Khóa XI và các văn bản pháp luật luôn đề cao vai trò của nhân tài khoa học nhưng trong quá trình thi hành luật năm 2000, Chính phủ hầu như không có một chính sách cụ thể nào để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao. Trong khi đó ở các nước đều có những chính sách này rất cụ thể. Ví dụ ở Hàn Quốc, từ những thập kỷ 60 của thế kỷ XX đã quyết tâm thực hiện chính sách mời các nhà khoa học Hàn Quốc đang làm việc ở nước ngoài về làm việc tại các viện nghiên cứu trong nước với chế độ tiền lương cao gấp ba lần các giáo sư trong nước kèm theo đó là các chế độ về nhà ở, đầu tư cơ sở vật chất. Kết quả sau 40 năm Viện KIT đã trở thành một trong 10 viện hàng đầu thế giới và Hàn Quốc trở thành một quốc gia công nghiệp hóa thành công nhất. Hay như ở Trung Quốc cũng có những chính sách tương tự và đã trở thành một cường quốc kinh tế thứ hai thế giới.

Ở nước ta không những không có chính sách cụ thể mà còn có nhiều rào cản đến sự phát triển nhân tài khoa học và công nghệ, đặc biệt cơ chế tài chính. Nếu theo quy định của luật hiện hành, từ khi đề xuất nhiệm vụ đến khi có kinh phí thực hiện thì phải mất ít nhất từ 9 - 15 tháng và có khi tới 2 năm như năm 2011 và năm 2012. Như vậy, đã mất tính cấp thiết và hứng thú sáng tạo của các nhà khoa học hoặc khi thực hiện thì dự toán đã lạc hậu so với giá cả hiện hành, buộc các nhà khoa học phải chia nhỏ thành nhiều nội dung để hợp thức hóa chứng từ, điều này trái với bản chất của hoạt động nghiên cứu là tính trung thực và nó đã làm nản lòng các nhà khoa học nhưng thực tế hiện tượng này không phải là hiếm. Bên cạnh đó thủ tục thanh quyết toán rườm rà, phức tạp làm các nhà khoa học phải mất rất nhiều thời gian và công việc thanh quyết toán, có nhiệm vụ do kinh phí chậm chưa kịp triển khai thì đã phải làm quyết toán, cho nên cơ chế tài chính hiện hành là “điểm ngẽn”, làm cản trở rất lớn đến sự phát triển của khoa học, công nghệ.

Ngoài yếu tố về tài chính, còn có nhiều yếu tố khác như môi trường, điều kiện làm việc... do đó đã xảy ra tình trạng “chảy máu” chất xám từ khu vực nhà nước sang doanh nghiệp và nước ngoài. Thật đáng suy nghĩ khi mà một nước có tới 24.000 tiến sỹ, 101.000 thạc sỹ mà lại thiếu các nhà khoa học, các tổng công trình sư có trình độ và năng lực cao để chủ trì các nhiệm vụ nghiên cứu quan trọng quy mô quốc gia và quốc tế. Do vậy, nếu dự thảo Luật sửa đổi lần này không có những quy định đột phá để thể hiện rõ con người là trung tâm, là chủ thể chính trong phát triển khoa học, công nghệ và để thu hút nhân tài thì chỉ trong một vài năm nữa, đất nước ta sẽ thiếu trầm trọng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ có trình độ. Như vậy, khó có thể thực hiện được chiến lược phát triển khoa học và công nghệ từ nay đến năm 2020.
 
ĐBQH Trần Du Lịch (TP Hồ Chí Minh): Khoa học và giáo dục phải là động lực thực sự để phát triển

Dự thảo Luật đã khắc phục được rất nhiều nhược điểm trong cơ chế quản lý khoa học đang tồn tại. Tuy nhiên, nếu đặt khoa học công nghệ là một quốc sách, là động lực, muốn phát triển, muốn thực hiện thành công sự nghiệp CNH – HĐH và muốn không rơi vào bẫy thu nhập trung bình thì chỉ có con đường duy nhất là khoa học và giáo dục phải thành động lực thực sự để phát triển và để cạnh tranh hội nhập. Với yêu cầu như vậy, tôi cho rằng dự thảo luật chưa đủ sức để làm điều đó như trông đợi của Đảng xem khoa học công nghệ là quốc sách.

Luật ra đời phải là động lực giống như khoán 10 trong nông nghiệp, giống như Luật Doanh nghiệp năm 2000 ra đời khi đó số lượng doanh nghiệp phát triển rất nhanh chóng. Phải tiếp cận cách đó thì mới đạt yêu cầu. Trên tinh thần đó phải trả lời vấn đề tại sao một đất nước có đội ngũ khoa học như vậy, có trí tuệ như vậy mà 20 năm, qua khoa học ở đâu mà quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam vẫn triền miên trong giai đoạn 1 của 4 giai đoạn, tức là một nền công nghiệp vẫn dựa vào nước ngoài, nhập công nghệ, gia công cho nước ngoài, vắng bóng khoa học công nghệ đi vào cuộc sống. Chúng ta không vươn lên được giai đoạn 2 như một nước trung bình, càng ngày càng lạc hậu, bởi vì chưa có chính sách cho khoa học công nghệ để huy động cả xã hội đi vào khoa học công nghệ chứ không phải chỉ bàn cách chia 2% ngân sách của nhà nước. Cách tiếp cận của ta vẫn là làm sao chia 2% đó cho tốt.

Tôi đề nghị phải đặt lại vấn đề cách tiếp cận. Mục tiêu của luật này là khoa học, công nghệ phải phục vụ cho được mục tiêu CNH – HĐH đất nước. Khoa học không phải vì khoa học mà khoa học vì nhân sinh. Trên quan điểm đó, tôi đề nghị thứ nhất, thay đổi phương pháp tiếp cận. Đề nghị đưa một chương mang tên "Huy động nguồn lực xã hội đầu tư phát triển khoa học, công nghệ" với tất cả chính sách cụ thể nếu huy động được. Chương này quan trọng hơn chương bàn về cách quản lý của nhà nước, về ngân sách nhà nước. Nếu vậy thì cách tiếp cận như thế nào?

Thứ hai, phải thay đổi hoàn toàn phương thức nhà nước tài trợ cho khoa học, công nghệ. Hiện nay chúng ta tài trợ theo kiểu như trong báo cáo là qua các viện của nhà nước, qua quỹ sự nghiệp cho bộ, ngành, địa phương chia nhau, không phải như vậy. Phải xây dựng những trung tâm, viện của nhà nước, các ngành khoa học cơ bản bao cấp đến nơi, đến chốn để làm. Ngoài ra thay đổi hoàn toàn phương thức tài trợ chứ không bao cấp cho mọi người. Theo tôi đây là việc chuyển từ phương thức bao cấp sang phương thức tài trợ ngân sách nhà nước mà nhiều nước đã làm. Với cách tiếp cận này, có thể thay đổi hoàn toàn cách làm. Làm sao quay trở lại không phải như báo cáo hiện nay 70% khoa học công nghệ là nhà nước đầu tư, xã hội được 20-30%. Phải ngược lại nhà nước 30%, xã hội 70% thì mới thành công. Không bao giờ ngân sách có thể “nuôi” được nếu như xã hội không làm.
 
ĐBQH Nguyễn Thanh Hải (Hòa Bình): Vấn đề không phải là 2% hay 3% ngân sách dành cho khoa học, công nghệ…
 
Không thể phủ nhận nội dung của dự thảo Luật đã thể hiện rõ ước vọng tháo gỡ những vướng mắc, tắc nghẽn trong cơ chế tài chính, trong quản lý khoa học hay các chính sách đãi ngộ. Tuy nhiên đó chỉ là mong muốn của Ban soạn thảo nhưng lại không được thể hiện một cách rõ ràng chi tiết cụ thể trong các điều, khoản, nội dung của dự thảo Luật; chưa đáp ứng được mong chờ của các nhà khoa học và chưa thực sự tạo ra động lực cho khoa học phát triển trong thời gian tới. Chẳng hạn như vấn đề tài chính, tín dụng được quy định từ Điều 54 đến Điều 59 trong dự thảo Luậ. Đây vẫn là khúc mắc lớn nhất nhưng trong dự thảo Luật vẫn còn rất chung chung. Ví dụ tại Khoản 5, Điều 53 ghi rõ: các nhiệm vụ của khoa học, công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước được thực hiện theo cơ chế khoán chi và được cấp kinh phí chủ yếu thông qua các quỹ trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Nhưng khoán chi như thế nào mới là điều các nhà khoa học, những nhà quản lý khoa học quan tâm thì lại không được thể hiện hay quy định gì trong luật. Thậm chí không được giao cho Chính phủ quy định mà chỉ thấy đề cập tới việc điều kiện để áp dụng khoán chi.

Vấn đề tiếp theo liên quan đến quan điểm xây dựng luật cũng như những chính sách của nhà nước về phát triển khoa học, công nghệ và mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ với phát triển KT - XH. Gần đây thực tế cho thấy có rất nhiều các nền kinh tế phát triển dựa trên năng suất tổng hợp và quan trọng là việc vận dụng khoa học, công nghệ để tái cấu trúc hướng đến một nền kinh tế tri thức. Ở đó chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới đóng vai trò thiết yếu hết sức quan trọng. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ khiến khoa học ngày càng mang dáng dấp của một nền kinh tế. Ngành kinh tế này cần tập hợp các yếu tố cần thiết để hình thành một công xưởng khoa học, tạo ra hàng loạt các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng sản xuất và kinh doanh. Vậy theo hướng phát triển này thì nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu khoa học, công nghệ trên thế giới đang có xu hướng kết hợp chặt chẽ và thời gian chuyển giao từ nghiên cứu khoa học cơ bản đến sản xuất ngày càng phải được rút ngắn. Cùng với việc đưa nghiên cứu cơ bản xích lại gần với nghiên cứu ứng dụng để đáp ứng yêu cầu KT – XH thì một xu hướng mới đang nổi lên đó là cơ bản hóa các ngành khoa học ứng dụng cũng đang được nhiều quốc gia quan tâm vì nó sẽ nhanh chóng tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của sản xuất kinh doanh và nhu cầu của xã hội từ các nghiên cứu cơ bản ban đầu. Xu hướng mới này hoàn toàn không thấy được thể hiện ở bất kỳ điều khoản nào trong luật. Vì vậy, tôi đề nghị Ban soạn thảo quan tâm bổ sung thêm vào Điều 5 về chính sách nhà nước đối với việc phát triển khoa học công nghệ theo xu hướng mới liên kết giữa các ngành khoa học với nhau.

Tại Điều 5 Khoản 3 có nêu phát triển đồng bộ khoa học xã hội và khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ gắn với nhiệm vụ phát triển, gắn nhiệm vụ phát triển khoa học với nhiệm vụ phát triển KT - XH, tạo tiền đề hình thành nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên chính sách là như vậy nhưng không có một điều nào trong luật quy định chi tiết phải làm như thế nào và cụ thể như thế nào. Việc gắn kết nghiên cứu khoa học với sản xuất đang trở thành xu hướng hội tụ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đi theo hướng này cùng với sự nổi lên của nghiên cứu ứng dụng, vai trò của nghiên cứu cơ bản ngày càng trở nên quan trọng. Quan trọng ở đây không phải bởi tính hàn lâm của nghiên cứu cơ bản mà các nghiên cứu cơ bản hoàn toàn có thể gắn với sản xuất và mang lại ý nghĩa thực tiễn cao. Từ tăng cường liên kết giữa các ngành khoa học xuất hiện các nhóm nghiên cứu đa ngành. Trước đây chỉ thường xuất hiện các nhóm nghiên cứu đa ngành trong khối khoa học kỹ thuật hay khoa học tự nhiên như nhóm hóa lý, hóa sinh, y lý... nhưng nay các nhóm nghiên cứu đa ngành đã mở rộng kết hợp giữa khoa học tự nhiên với khoa học công nghệ để cùng giải quyết những vấn đề của sản xuất và làm nổi bật mối quan hệ liên kết của các quan hệ giữa khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ và khoa học xã hội.

Theo tôi có lẽ đây vừa là định hướng, vừa là điều kiện bảo đảm gắn kết bền vững giữa nghiên cứu khoa học và sản xuất. Và cũng rất tiếc các mô hình tổ chức khoa học liên ngành giữa các nhóm nghiên cứu đa ngành chưa được đề cập một chút nào trong luật. Tôi đề nghị Ban soạn thảo quan tâm bổ sung xây dựng các quy định cơ chế cho mô hình này hoạt động. Bởi vì đây là một xu hướng trên thế giới đang được quan tâm…

Vấn đề cuối cùng, liên quan đến cơ chế tài chính, vấn đề quan trọng không phải là 2% hay 3% ngân sách dành cho ngành khoa học để có thể tăng chất lượng nghiên cứu khoa học ngay lập tức mà quan trọng ở đây là cách thức giám sát và việc phân bổ các kinh phí ngân sách này như thế nào. Phân bổ đúng địa chỉ, đúng nơi, đúng chỗ và việc quản lý, sử dụng hiệu quả ngân sách sẽ tạo ra những động lực thúc đẩy các nhà khoa học phát triển, tránh đầu tư dàn trải với mọi ngành khoa học, cũng như không có mũi nhọn.

Nguồn tin: Đại biểu nhân dân

Ý kiến của bạn
Tên của bạn : *
E_mail : *
Tiêu đề : *
Nội dung : * (Bạn vui lòng gõ tiếng Việt có dấu)
 
Mã bảo mật :   
   
Các tin khác

   
Xem tin theo ngày
   
 
Xem nhiều nhất

English
Thăm dò ý kiến
Bạn biết website “truyenthongkhoahoc.vn” qua nguồn thông tin nào?
Bạn bè giới thiệu
Qua Google
Qua sách báo, quảng cáo banner