Triển khai thực hiện các dự án nông thôn miền núi (NTMN), tỉnh Thanh Hoá đã tiếp nhận các tiến bộ kỹ thuật mới áp dụng vào sản xuất đời sống tại các địa bàn nông thôn và miền núi góp phần tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh.
Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào đời sống
Thông tin từ Sở KH&CN tỉnh Thanh Hóa cho biết, năm 2014, Thanh Hóa đứng đầu các tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 11,6%. Bước đầu tỉnh đã hình thành được các vùng sản xuất rau an toàn với diện tích 600 ha; chăn nuôi phát triển theo hướng gia trại, trang trại; tỷ lệ che phủ rừng năm 2014 đạt 51,5%. Tỉnh đã triển khai xây dựng vùng thâm canh luồng tập trung đến năm 2015 đạt gần 30 ngàn ha tại 7 huyện miền núi: Bá Thước, Cẩm Thủy, Lang Chánh, Ngọc Lặc, Quan Hóa, Quan Sơn, Thường Xuân. Tỉnh đã cải tạo và khai thác tốt rừng vầu đảm bảo nguyên liệu phục vụ sản xuất ngành hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
Đạt được các kết quả khả quan như vậy là do các địa phương nói trên đã được tiếp nhận và ứng dụng công nghệ để chủ động sản xuất các giống cây trồng trong nông nghiệp, lâm nghiệp, phát triển các sản phẩm có lợi thế của địa phương về nghề trồng nấm, đan đèn lồng xuất khẩu, du nhập và cải tạo các giống con nuôi thích hợp với 121 quy trình kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Qua chương trình đã đào tạo hàng trăm kỹ thuật viên cơ sở và tập huấn các tiến bộ KH&CN cho gần 3.000 lượt nông dân. Kết quả các dự án đã tạo ra được nhiều mô hình ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN vào sản xuất đạt hiệu quả cao.
Với dự án “Xây dựng mô hình sản xuất giống và trồng dược liệu tại huyện Bá Thước, Thanh Hóa” đã tạo cho người dân miền núi làm quen với kỹ thuật sản xuất giống và trồng dược liệu, có khả năng độc lập nhân rộng mô hình sản xuất hàng hóa và có thêm thực tiễn về khả năng chuyển dịch cơ cấu cây trồng ngày càng có hiệu quả trên vùng đất lâu đời vốn có nền sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc. Hay sự thành công của mô hình trồng hoa tươi chất lượng cao tại thành phố Thanh Hóa đã thu hút được bộ phận không nhỏ lực lượng lao động khu vực thành phố và vùng phụ cận, tăng thu nhập cho người lao động. Đến nay, người dân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại TP Thanh Hóa đã mở rộng diện tích trồng hoa lên gấp 7-10 lần so với các mô hình dự án đã xây dựng, đã có các mô hình trồng hoa công nghệ cao thu nhập 500 - 700 triệu đồng/ha/năm.
Bên cạnh đó, mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cải tiến công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất đèn lồng xuất khẩu, gắn với khai thác hợp lý rừng vầu tại Thanh Hóa đã tạo thêm nguồn thu nhập và việc làm cho người dân thuộc các xã nghèo, xã bãi ngang, khó khăn thuộc các huyện ven biển và miền núi cũng như các vùng khác trong địa bàn triển khai dự án (tại các huyện: Thường Xuân, Quan Sơn, Nông Cống, Tĩnh Gia, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Quảng Xương…). Đây cũng là mô hình ứng dụng KH&CN trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất: liên hoàn từ khâu khai thác nguyên liệu, chế biến thành phẩm đến tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp và có ý nghĩa lớn về xã hội trong việc đào tạo nghề và giải quyết công ăn việc làm cho lao động nông thôn...
Ngoài ra, Thanh Hóa còn hình thành và phát triển được nghề trồng nấm tại 17/27 huyện thị xã, thành phố, chủ động cung ứng giống nấm ăn, nấm dược liệu tại chỗ, đáp ứng nhu cầu sản xuất nấm tại địa phương. Dự án trồng nấm đã tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn với mức bình quân 100.000 đồng-150.000 đồng/ngày công. Phát triển nghề trồng nấm đã tận dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, bã mía….góp phần bảo vệ môi trường, góp phần xây dựng nông thôn mới. Ngoài ra, từ kết quả của dự án còn chuyển giao kỹ thuật nhân giống và sản xuất nấm thương phẩm tại tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào.
Huy động nguồn lực xã hội thực hiện chuyển giao công nghệ
Từ năm 2001 đến nay, tỉnh Thanh Hóa đã được Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phê duyệt 12 dự án thuộc Chương trình “Hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn miền núi” với tổng kinh phí 99,2 tỷ đồng.
TS. Nguyễn Ngọc Túy, Phó Giám đốc Sở KH&CN tỉnh Thanh Hóa cho biết, Chương trình NTMN đã giúp cho các đối tượng tham gia dự án ở địa phương nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò của KH&CN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật cơ sở được nâng cao về năng lực chuyên môn, các hộ nông dân tham gia dự án được trang bị thêm các kiến thức và kỹ năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp cận các công nghệ tiến tiến trong trồng trọt và chế biến sản phẩm, làm quen với sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
Phần lớn các dự án NTMN triển khai trên địa bàn tỉnh đã triển khai thành công việc xây dựng và nhân rộng mô hình, có tác động tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế - xã hội của địa phương. Ở một số dự án việc triển khai ứng dụng, duy trì và nhân rộng mô hình vào thực tiễn sản xuất còn gặp một số khó khăn do chưa có cơ chế quản lý và tài chính để thực hiện việc duy trì và mở rộng dự án.
Từ thực tiễn triển khai thực hiện và quản lý các dự án thuộc Chương trình NTMN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn từ 1998 đến nay, TS. Nguyễn Ngọc Túy chỉ ra một số vấn đề về cơ chế quản lý, cơ chế tài chính của chương trình và sự phối hợp trong công tác quản lý các dự án giữa trung ương và địa phương.
Thứ nhất, mục tiêu của Chương trình đáp ứng nhu cầu cần thiết của các địa phương trong việc đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất và đời sống ở vùng nông thôn miền núi, nên đã luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy chính quyền và sự tham gia nhiệt tình của tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Thứ hai là, cơ chế quản lý và cơ chế tài chính của Chương trình cơ bản là hợp lý, rõ ràng, dễ thực hiện và kịp thời. Tuy nhiên, cơ chế hỗ trợ của Chương trình là Nhà nước chỉ hỗ trợ 30% tổng kinh phí thực hiện dự án còn lại là đối ứng của doanh nghiệp và của người dân, nên việc thực hiện các mô hình dự án gặp nhiều khó khăn vì người dân và các doanh nghiệp tham gia chương trình thuộc vùng nông thôn miền núi đời sống có tiềm lực hạn chế.
Ông Túy khẳng định, Chương trình NTMN đã mang lại hiệu quả tích cực, thể hiện được vai trò của KH&CN trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại vùng nông thôn miền núi còn nhiều khó khăn. Do vậy cần tiếp tục triển khai Chương trình này trong thời gian tới. Cùng với đó là ban hành cơ chế phối hợp, lồng ghép với các chương trình khác để tập trung sức mạnh tổng hợp về nguồn tài chính và đội ngũ kỹ thuật viên các dự án tại cùng một địa bàn, nhằm huy động được nhiều nguồn lực xã hội thực hiện chuyển giao công nghệ, nhân rộng kết quả các mô hình ứng dụng, đồng thời có giải pháp phối hợp như: vay vốn ưu đãi, tuyên truyền thông tin, đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm.
Ông Nguyễn Ngọc Túy đưa ra đề nghị Bộ KH&CN trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ưu tiên dành nguồn ngân sách hỗ trợ cho các hoạt động ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào các vùng NTMN: Nhà nước hỗ trợ 50 - 70%; Doanh nghiệp và người dân đối ứng cơ sở vật chất, công lao động...khoảng 30 - 50% tổng kinh phí thực hiện dự án. Đồng thời, Bộ KH&CN báo cáo trình Chính phủ phê duyệt tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình trong các giai đoạn tiếp theo. Tổ chức cho các Sở KH&CN tìm hiểu, học tập kinh nghiệm của các dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao để triển khai áp dụng tại địa phương. Hỗ trợ kinh phí để nhân rộng kết quả sản xuất sau khi kết thúc dự án...
Lê Hà