Banner TOP trái 1
Banner TOP phải 3
Hoạt động KH&CN Thứ hai, 25/11/2024 , 05:59 am
Cập nhật : 23/10/2016 , 21:10(GMT +7)
Đồng bằng sông Cửu Long - Ứng dụng KH&CN vào phát triển kinh tế - xã hội trước biến đổi khí hậu
Hội nghị đề đưa ra nhiều ý kiến quý báu cho hoạt động KH&CN của Vùng
Tại Hội nghị giao ban Vùng đồng bằng sông Cửu Long lần thứ 24 do Bộ KH&CN và UBND tỉnh An Giang phối hợp tổ chức ngày 21/10 tại TP Long Xuyên, nhiều nội dung được các đại biểu đề xuất như: Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm công nghệ có chất lượng cao; lấy doanh nghiệp làm trung tâm cho việc đổi mới, chuyển giao công nghệ nhằm tạo dựng cơ chế liên kết hợp tác ba nhà (các Viện nghiên cứu, trường đại học – doanh nghiệp – cơ quan quản lý nhà nước)...nhằm tái cơ cấu ngành nông nghiệp trong điều kiện hạn hán, xâm nhập mặn và nước biển dâng.

Nhiều sản phẩm có hàm lượng KH&CN cao

Thứ trưởng Trần Việt Thanh cho biết, một trong những đóng góp nổi bật của hoạt động KH&CN trong vùng (giai đoạn 2014 – 2016) là việc đưa nhanh các tiến bộ KH&CN vào sản xuất những sản phẩm chủ lực của vùng theo hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp trong điều kiện hạn hán, xâm nhập mặn và nước biển dâng (nuôi trồng thủy sản, sản xuất cây ăn trái, sản xuất lúa gạo chất lượng cao); nhiều mô hình mới trong phát triển kinh tế đã bước đầu được hình thành như: mô hình “Cánh đồng lớn sản xuất lúa gạo chất lượng cao”; “Nuôi tôm siêu thâm canh”; “Sản xuất cây ăn quả đặc sản, chất lượng cao”,...

Qua đó đã hình thành chuỗi giá trị của những sản phẩm chủ lực theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, giá trị cao, gắn với thị trường tiêu thụ; cải tiến, đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp; tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời khẳng định vai trò to lớn của KH&CN trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương.

Thứ trưởng Trần Việt Thanh phát biểu tại Hội nghị

Bên cạnh sự đổi mới mạnh mẽ của các cơ chế, chính sách, cải cách hành chính,… nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Ngành KH&CN đã và đang khẩn trương xây dựng những cơ chế chính sách đổi mới như: tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết 20); Luật KH&CN; tham mưu cho Chính phủ các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật,… “Đây chính là hành lang pháp lý quan trọng cần được tổ chức một cách đồng bộ, quyết liệt nhằm thúc đẩy phát triển KH&CN ở nước ta trong thời gian tới” Thứ trưởng Trần Việt Thanh nhấn mạnh.

Theo báo cáo Vụ Phát triển KH&CN Địa phương, giai đoạn 2014 – 2016 có 43 nhiệm vụ KH&CN đã đang triển khai, trong đó có 32  nhiệm vụ đã được phê duyệt. Các nhiệm vụ sau khi kết thúc đều tạo ra được những sản phẩm có hàm lượng KH&CN cao, đáp ứng được mục tiêu đề ra, kết quả, sản phẩm có khả năng ứng dụng và nhân rộng, phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương như: nghiên cứu chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt tại Bến Tre; nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến chọn tạo giống lúa thuần chống chịu mặn – hạn thích nghi với điều kiện canh tác vùng nhiễm mặn thuộc Đồng bằng sông Cửu Long; nghiên cứu, hoàn thiện quy trình công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh tại Bạc Liêu,…

Lĩnh vực khoa học xã hội ngoài phục vụ cho công tác quản lý, điều hành, tạo luận cứ khoa học, chiến lược cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương còn là cơ sở lý luận thực tiễn cho xây dựng mô hình nông thôn mới, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, tiêu biểu: nghiên cứu ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ và triển khai phần mềm quản lý các đối tượng lưu trú trên toàn tỉnh Trà Vinh; xây dựng mô hình khai thác thông tin Internet phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương tại các điểm chùa Khmer tỉnh Sóc Trăng; xây dựng mô hình Câu lạc bộ thanh niên Khmer học tập kỹ năng phát triển kinh tế gia đình và thực hiện nếp sống văn minh tại xã Định Hòa – huyện Gò Quao,…

Về hoạt động Sở hữu trí tuệ (SHTT), các hoạt động hỗ trợ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc thù của từng tỉnh đã được đẩy mạnh: An Giang hỗ trợ chi phí đăng ký 141 nhãn hiệu trong nước; Hậu Giang xây dựng và đăng ký nhãn hiệu tập thể cho 07 mặt hàng nông sản chủ lực của tỉnh,…

Đối với lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng (TĐC), các tỉnh trong vùng chủ yếu tập trung hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng tiêu chuẩn cơ sở và lập hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm hàng hóa theo quy định; tập trung hướng dẫn các doanh nghiệp, đơn vị hành chính áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng; hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật thương mại (TBT) cho doanh nghiệp,…

Đặc biệt, các Sở KH&CN đã tham mưu cho UBND các tỉnh ban hành các chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa tiêu biểu (An Giang hỗ trợ kinh phí cho 09 cơ sở sản xuất khô cá, mắm cá; Đồng Tháp triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ kinh phí cho 27 lượt doanh nghiệp để áp dụng các tiêu chuẩn ISO 14001:2004, Global GAP-CFM,…) Các nhiệm vụ đã bám sát nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, có địa chỉ ứng dụng cụ thể, thậm chí thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu.

Nhưng tính liên vùng, liên tỉnh...còn yếu

Vùng ĐBSCL có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển nông nghiệp, thủy sản,.. nhưng hiện đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức đặc biệt là hạn hán, xâm nhập mặn và nước biển dâng. Hội nghị giao ban là dịp để các tỉnh cùng nhìn lại những lợi thế, khó khăn và trao đổi kinh nghiệm về tổ chức, quản lý hoạt động KH&CN, thảo luận các biện pháp để giải quyết những vấn đề vướng mắc trong quá trình triển khai để phát triển Vùng.

Theo báo cáo Vụ Phát triển KH&CN Địa phương (Bộ KH&CN), Vùng vẫn còn nhiều khó khăn như: việc phân bố kinh phí cho các nhiệm vụ KH&CN ở một số địa phương vẫn dàn trải; chưa nhiều địa phương xây dựng được các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm phục vụ các sản phẩm chủ lực, các nhiệm vụ có tính liên vùng, liên tỉnh; nhiều sản phẩm có thế mạnh trong vùng chưa được đầu tư một cách thỏa đáng như vấn đề giống chất lượng trong sản xuất, công nghệ bảo quản, công nghệ chế biến sau nông sản, phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên,…

Bên cạnh đó, việc chuyển đổi hoạt động theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc bởi tổ chức KH&CN vừa chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp vừa chịu sự điều chỉnh của Luật KH&CN nên gặp một số khó khăn về tài chính, thuế, bổ nhiệm cán bộ,…Quá trình đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp còn chậm dẫn đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước chưa cao.

Về tiến độ triển khai hoạt động KH&CN, báo cáo của Sở KH&CN Cần Thơ cũng chỉ ra cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động KH&CN chưa thật sự thông thoáng để hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, việc thực hiện các quy trình quy định mới trong quản lý các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước gặp khó khăn trong xác định ngày công khi áp dụng Thông tư 55/2015/TTLT – BTC- BKHCN (cơ sở xác định ngày công); Thông tư 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC,… đã phần nào ảnh hưởng đến tiến độ triển khai.

Nhận định về sự phát triển của Vùng thời gian qua, Giám đốc KH&CN Cần Thơ Trần Ngọc Nguyên cho biết, Vùng đã có nhiều thay đổi về giống, các canh tác để đưa lúa gạo lên tầm cao mới. Tuy nhiên, để sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thì giai đoạn tới, cần phát triển công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ cao, tập trung xây dựng khu công nghệ cao trong vùng. Trong đó, vấn đề đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp là câu chuyện mới để các sở KH&CN phát triển theo định hướng mới.

Bên cạnh cơ chế quản lý tài chính, báo cáo của Sở KH&CN Hậu Giang chỉ ra cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng KH&CN thiếu và yếu cũng là nguyên nhân hạn chế cho việc thực hiện các nhiệm vụ Nhà nước đặt hàng. Đồng thời, hiện chưa có giải pháp đủ mạnh, khả thi để huy động doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu đổi mới công nghệ dẫn đến thiếu hụt nguồn lực đáng kể của xã hội cho hoạt động đầu tư KH&CN.

Cần hỗ hỗ doanh nghiệp đổi mới và phát triển sản phẩm công nghệ

An Giang là một trong bốn tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm của Vùng, trong đó lúa gạo, cá tra - ba sa được ưu tiên phát triển theo Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020. Hiện nay, tỉnh đang tập trung thực hiện chương trình đầu tư công nghệ sinh học và công nghệ sau thu hoạch để nâng cao giá trị, chất lượng sản phẩm phù hợp nhu cầu trên thị trường.

Đánh giá về hoạt động KH&CN của tỉnh An Giang, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Nưng cho hay, tuy gặp phải nhiều khó khăn thách thức trong giai đoạn 2014 – 2016, nhưng tỉnh đã đạt được nhiều kết quả rõ nét, nổi bật. Điều  này thể hiện qua việc tổ chức, triển khai, thực hiện 78 đề tài, dự án, mô hình và nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và 83 đề tài cấp cơ sở. Trong đó, trên 75% các nhiệm vụ tập trung phục vụ nghiên cứu khảo nghiệm, đánh giá các giống cây trồng vật nuôi, quy trình sản xuất nông nghiệp ứng dụng các tiến bộ KH&CN theo hướng ứng dụng công nghệ cao. “Các đề tài KH&CN ngày càng bám sát nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, có địa chỉ ứng dụng rõ ràng và có báo cáo kết quả ứng dụng hàng năm” Ông Nưng nhấn mạnh.


Phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo hướng giống cây, con có chất lượng là một trong định hướng phát triển của Vùng.

Trước xu thế hội nhập hiện nay, phần lớn các ý kiến thống nhất tiếp tục hướng dẫn các cơ sở, doanh nghiệp xây dựng tiêu chuẩn cơ sở, công bố tiêu chuẩn áp dụng, công bố hợp chuẩn, hợp quy; phổ biến hướng dẫn các doanh nghiệp tham gia sử dụng mã số, mã vạch. Đặc biệt là việc triển khai các quy định quản lý về hoạt động  TĐC liên quan đến quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa thuộc Bộ KH&CN: mũ bảo hiểm, xăng dầu, đồ chơi trẻ em, thiết bị điện – điện tử,…

Đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT), các đại biểu đồng tình việc tiếp tục xây dựng Chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân của địa phương trong hoạt động xác lập, khai thác và thực thi quyền SHTT; hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp phát triển các dịch vụ cho hoạt động SHTT đáp ứng nhu cầu của địa phương,… Đặc biệt là việc đăng ký ra nước ngoài đối với hàng hóa, sản phẩm có khả năng xuất khẩu cao.

Một trong những nội dung được các đại biểu tập trung thảo luận tại Hội nghị là hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm công nghệ có chất lượng cao; lấy doanh nghiệp làm trung tâm cho việc đổi mới, chuyển giao công nghệ nhằm tạo dựng cơ chế liên kết hợp tác ba nhà (các Viện nghiên cứu, trường đại học – doanh nghiệp – cơ quan quản lý nhà nước). Trong đó, Nhà nước đóng vai trò cầu nối trong mối liên hệ giữa doanh nghiệp và các trường, viện; phát triển, hỗ trợ các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm của Vùng cũng như tiếp nhận, chuyển giao công nghệ từ các viện, trường đại học trong và ngoài nước cho các doanh nghiệp.

Cũng theo Thứ trưởng Trần Việt Thanh, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức sự phát triển kinh tế của vùng, đặc biệt là với doanh nghiệp. Trước tác động xấu của biến đổi khí hậu đối với Vùng, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã chỉ đạo sát sao việc tái cơ cấu nền kinh tế để phát huy lợi thế Vùng không để biến đổi khí hậu tác động xấu đến phát triển kinh tế.

Thứ trưởng  nêu ra định hướng phát triển của Vùng qua việc yêu cầu các Sở KH&CN cần nghiên cứu định hướng hoạt động KH&CN trong thời kỳ hội nhập để tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo các tỉnh thành phố. Đồng thời, tập trung đẩy mạnh các hoạt động liên quan đến đổi mới, ứng dụng phát triển công nghệ để tạo ra doanh nghiệp công nghệ, phát triển sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, tạo liên kết doanh nghiệp, nâng cao giá trị sản phẩm.

 

Bài, ảnh: Ngũ Hiệp




Ý kiến của bạn
Tên của bạn : *
E_mail : *
Tiêu đề : *
Nội dung : * (Bạn vui lòng gõ tiếng Việt có dấu)
 
Mã bảo mật :   
   
Các tin khác

   
Xem tin theo ngày
   
 
Xem nhiều nhất

English
Thăm dò ý kiến
Bạn biết website “truyenthongkhoahoc.vn” qua nguồn thông tin nào?
Bạn bè giới thiệu
Qua Google
Qua sách báo, quảng cáo banner