Theo lộ trình, Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 sẽ được khởi công xây dựng vào năm 2014 và vận hành thương mại vào năm 2020. Tuy nhiên, các thành viên chính phủ được phân công trực tiếp đảm trách nhiệm vụ này là Bộ Khoa học - Công nghệ và Bộ Công thương khẳng định, chỉ khi nào bảo đảm an toàn tuyệt đối, Việt Nam mới xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Và xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ là điều kiện tiên quyết để Việt Nam phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình.
Công tác chuẩn bị cho điện hạt nhân đã được nước ta tính đến từ những năm 1960, thông qua việc cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài nghiên cứu về lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Để có bước đi vững chắc, an toàn cho điện hạt nhân, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh đầu tư hạ tầng cơ bản, và với sự giúp đỡ của Nga, Việt Nam sẽ có một đội ngũ nhân lực và một Trung tâm khoa học công nghệ hạt nhân trị giá 500 triệu USD, đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu của các nhà khoa học về lĩnh vực năng lượng nguyên tử vào năm 2017. Bộ Trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ Nguyễn Quân khẳng định, đây là những ưu tiên hàng đầu cho phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân ở Việt Nam, và chỉ khi nào đảm bảo an toàn tuyệt đối thì mới xây dựng nhà máy điện hạt nhân.
Phó tổng Giám đốc, Vụ trưởng Vụ Năng lượng hạt nhân Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) Alexander Bychkov đánh giá, năng lượng điện hạt nhân sẽ đóng một vai trò quan trọng trong các thập kỷ tiếp theo. Trong kỷ nguyên hậu Fukushima, phát triển điện hạt nhân có thể bị trì hoãn nhưng không thể đảo ngược được. Các quốc gia mới thực sự có ý định phát triển điện hạt nhân vẫn coi điện hạt nhân như là một nguồn năng lượng đáng tin cậy. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, mức độ an toàn của các nhà máy điện hạt nhân đã được cải thiện rất nhiều. Các nhà cung cấp công nghệ và thiết bị hạt nhân rất tích cực trong việc đẩy mạnh công nghệ của mình để đảm bảo các chương trình hạt nhân được vận hành an toàn.
Các nhân tố then chốt cho sự thành công của chương trình điện hạt nhân bao gồm sự tham gia của các bên liên quan trong cơ sở hạ tầng, ban hành luật pháp quốc gia, trong đó, định rõ vai trò, trách nhiệm và mở rộng thẩm quyền cho chủ sở hữu, tổ chức vận hành tương lai cũng như cho các cơ quan pháp quy. Trong đó, theo Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA, quá trình phát triển hạ tầng điện hạt nhân được chia thành 3 giai đoạn với tổng thời gian từ 10 đến 15 năm, tính từ lúc Chính phủ bắt đầu lựa chọn năng lượng hạt nhân đến khi đưa nhà máy điện hạt nhân đầu tiên vào vận hành thương mại. Theo tiêu chí của IAEA thì hiện nay Việt Nam đang ở giai đoạn 2 của quá trình phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Quân thì thách thức lớn nhất mà chúng ta đang phải đối mặt là tiềm lực tài chính còn khó khăn. Toàn bộ tài chính cho điện hạt nhân Việt Nam phải dựa vào nguồn vốn ODA của Nga, Nhật Bản. Cùng đó, quyết định xây nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam gặp những ý kiến không đồng thuận sau khi xảy ra thảm họa Fukushima, dẫn tới công tác tuyên truyền đến người dân để tạo đồng thuận là thách thức rất lớn - mặc dù công nghệ mà Việt Nam lựa chọn đã đảm bảo mức an toàn rất cao.
Nhìn vào Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia, việc đồng ý chủ trương xây dựng điện hạt nhân có thể ví như quyết tâm chính trị trong việc đồng ý cho triển khai xây dựng đường dây truyền tải điện 500kV Bắc Nam năm 1992, khi vẫn còn rất nhiều ý kiến trái chiều. Và thực tế đã chứng minh vị thế của đường dây siêu cao áp thống nhất hệ thống điện - với tầm nhìn chiến lược mang tầm thời đại. Điện hạt nhân cũng là lựa chọn của tương lai. Nhưng điều kiện tiên quyết để xây dựng và phát triển nó phải là một cơ sở hạ tầng đồng bộ, đảm bảo an ninh năng lượng, an toàn tuyệt đối.