Cơ chế đánh giá, xử lý trách nhiệm khi trao quyền tự chủ cho tổ chức KH&CN – góc nhìn từ thanh tra
So với các tổ chức kinh tế khác trong xã hội, những ưu đãi mà cơ chế tạo ra cho các tổ chức KH&CN là
Nghị định số 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ (Nghị định 115) quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập được ban hành năm 2005. Tháng 6/2006, Thông tư số 12/2005/TTLT/BKHCN-BTC-BNV (Thông tư 12) hướng dẫn thực hiện Nghị định 115 cũng được liên Bộ KH&CN, Tài chính và Nội vụ ban hành. Các văn bản này thể hiện một chính sách được coi là “đột phá đổi mới” cho KH&CN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhằm giải quyết những bức xúc của thực tiễn phát triển kinh tế xã hội.
Cùng với Nghị định 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN được ban hành năm 2007, Nghị định 115 là giải pháp quan trọng về tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp khoa học, quy định việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao nhất cho các tổ chức KH&CN công lập (nhiều năm qua được hưởng kinh phí hoạt động thường xuyên từ ngân sách nhà nước theo cơ chế bao cấp), đó chính là cơ chế của doanh nghiệp như các nghị quyết của Đảng đã yêu cầu.
Qua quá trình triển khai thực hiện, đến đầu năm 2008, nhiều bộ, ngành và địa phương đã thực hiện tốt chính sách nhưng bên cạnh đó cũng còn có một số bộ, ngành, địa phương khác chưa chỉ đạo quyết liệt. Tính đến hết quý I/2008, theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, trong tổng số 504 tổ chức KH&CN thuộc các Bộ, ngành và địa phương có 205 tổ chức KH&CN có Đề án đã được phê duyệt (khoảng 40,67%), 135 tổ chức KH&CN đã có đề án trình cấp thẩm quyền phê duyệt (khoảng 26,7%), 134 tổ chức KH&CN đang xây dựng và hoàn chỉnh Đề án(1).
Nhìn chung, các bộ, ngành, địa phương đều đánh giá cao chính sách đổi mới quản lý khoa học và công nghệ của Nhà nước và coi đó là một bước đi tất yếu và cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức KH&CN trên cả nước. Tuy nhiên trong quá trình triển khai Nghị định 115, nhiều tổ chức khoa học và công nghệ có tư tưởng e ngại chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115 (đặc biệt là các tổ chức khoa học và công nghệ ở địa phương) và vẫn muốn dựa vào sự hỗ trợ, bao cấp của Nhà nước để hoạt động. Bên cạnh đó, các nội dung quy định tại Nghị định 115 và các văn bản hướng dẫn thực hiện còn thiếu đồng bộ, nhiều chỗ chưa rõ ràng, chưa bao quát hết các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, đặc biệt, các cơ chế tài chính chưa thực sự khuyến khích các tổ chức khoa học và công nghệ phát huy hết khả năng của mình trong các hoạt động sáng tạo, dịch vụ, sản xuất và kinh doanh…. Do vậy, ngày 20/9/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định 96/2010/NĐ-CP (Nghị định 96) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 115 và Nghị định 80/2007/NĐ-CP để tháo gỡ những tồn tại nêu trên. Một trong những thay đổi căn bản của Nghị định 96 là thay đổi về phương thức cấp kinh phí hoạt động cho các tổ chức KH&CN. Và hiện nay, Bộ KH&CN cũng đang xây dựng dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 12 hướng dẫn thực hiện Nghị định 115.
Có thể thấy rằng, mục tiêu quan trọng của chính sách cũng như những nội dung cơ bản của các văn bản là nhằm “đưa tinh thần doanh nghiệp vào các tổ chức KH&CN”. Để thực hiện mục tiêu này, các tổ chức KH&CN ngoài việc được trao quyền tự chủ rất lớn còn được giao quản lý, sử dụng một số lượng tài sản lớn của Nhà nước để phục vụ hoạt động nghiên cứu và sản xuất kinh doanh (kể cả xuất nhập khẩu trực tiếp). So với các tổ chức kinh tế khác trong xã hội, những ưu đãi mà cơ chế tạo ra cho các tổ chức KH&CN là lợi thế vô cùng lớn. Có thể nói, tổ chức KH&CN đã được “mặc 2 áo”, bên cạnh cái áo thứ nhất, vẫn là các đơn vị nghiên cứu KH&CN như trước đây, thì họ được khoác thêm chiếc áo thứ hai, được công nhận và hoạt động như một doanh nghiệp chính danh(2). Như vậy, nếu xét trên phương diện lý luận về quản lý nhà nước, tổ chức KH&CN ngoài việc vận hành và chịu sự điều chỉnh bởi các quan hệ về quản lý hành chính, thì nay còn bị chi phối bởi các quan hệ mang tính chất kinh tế, thương mại.
Nếu so sánh (dù hơi khiên cưỡng) giữa việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước với việc giao quyền tự chủ và tài sản của Nhà nước cho tổ chức KH&CN, ta thấy có nét gì đó tương đồng, mà cụ thể là việc cả 2 đều được chuyển giao quyền tự chủ và chịu sự tác động của nền kinh tế thị trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhưng điểm khác nhau căn bản nhất chính là quyền quản lý, kiểm soát đối với tổ chức. Quyền kiểm soát, quản lý đối với doanh nghiệp cổ phần được xác lập bởi khối lượng tài sản mà người đứng đầu nắm giữ và thông qua đại hội cổ đông, còn người đứng đầu tổ chức KH&CN lại thông qua một quyết định hành chính. Người đứng đầu doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trước các cổ đông khác, với chính số tài sản của mình đóng góp và có thể bị đại hội cổ đông tước quyền kiểm soát. Nhưng người đứng đầu tổ chức KH&CN chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính với những chế tài theo hệ thống pháp luật về cán bộ, công chức - vốn khá tách biệt với các quan hệ mang tính chất kinh tế. Như vậy có thể thấy rằng, tổ chức KH&CN hay chính xác hơn là thủ trưởng tổ chức KH&CN được trao quyền hạn quyết định hầu hết các vấn đề quan trọng của tổ chức KH&CN, được giao một khối lượng tài sản lớn nhưng chỉ phải chịu sự điều chỉnh bởi quan hệ (trách nhiệm) hành chính.
Trong quá trình xây dựng Nghị định 115 và các văn bản liên quan, một số ý kiến đã đề cập đến vấn đề “Thủ trưởng tổ chức KH&CN phải lấy ý kiến của quần chúng trước các quyết định nhân sự chủ chốt. Mặt khác, nhằm tránh nguy cơ toàn bộ tài sản nhà nước bị thất thoát do kinh doanh thua lỗ, dự thảo Nghị định cũng quy định một bộ phận tài sản của đơn vị phải được duy trì để phục vụ công tác nghiên cứu theo nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, các phòng thí nghiệm trọng điểm (trị giá hàng chục tỷ đồng) không được phép mang đi đấu giá, thế chấp”(3).
Liên quan đến việc kiểm tra, giám sát và xử lý trách nhiệm của thủ trưởng tổ chức KH&CN, Nghị định 115 và Thông tư 12 cũng có quy định:
- Cơ quan chủ quản có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm của thủ trưởng tổ chức KH&CN, thực hiện việc đánh giá, xử lý trách nhiệm thủ trưởng tổ chức KH&CN theo quy định của pháp luật (điểm b khoản 1 mục XIV Thông tư 12);
- Thủ trưởng tổ chức KH&CN thực hiện quyền tự chủ và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của tổ chức KH&CN; chịu trách nhiệm về những sai phạm xảy ra trong đơn vị; được khen thưởng hoặc phải chịu kỷ luật tuỳ theo thành tích hoặc mức độ vi phạm theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 13 Nghị định 115);
- Trong mọi trường hợp, thủ trưởng đơn vị có trách nhiệm quản lý, bảo toàn tổng giá trị và phát triển tài sản của Nhà nước giao cho đơn vị. Khi kết thúc nhiệm kỳ quản lý, nghỉ chế độ hoặc thuyên chuyển công tác, Thủ trưởng đơn vị phải bàn giao đầy đủ tài sản của đơn vị cho người kế nhiệm (điểm c khoản 3 mục VII Thông tư 12).
Tuy nhiên, thực tế cho thấy các quy định này khá chung chung và chỉ mang tính hình thức nếu không có những quy định hướng dẫn cụ thể hơn. Ví dụ: cơ quan chủ quản kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng tổ chức KH&CN theo quy trình nào? Tiêu chí đánh giá ra sao? Nếu thủ trưởng tổ chức KH&CN không làm tròn trách nhiệm bảo toàn và phát triển, thậm chí làm thất thoát tài sản được giao thì có bị xử lý không? Xử lý trách nhiệm theo trình tự và pháp luật nào? (hành chính? kinh tế? dân sự?...). Như vậy, dường như đã có sự mất cân đối giữa quyền hạn được giao và trách nhiệm tương ứng của thủ trưởng tổ chức KH&CN. Nói cách khác, cơ chế giám sát, đánh giá và xử lý trách nhiệm cụ thể của thủ trưởng tổ chức KH&CN chưa đầy đủ và hoàn chỉnh.
Chúng ta mong muốn tổ chức KH&CN, cụ thể là tập thể CBCNV trong tổ chức đó dám chấp nhận thử thách, vận hành theo cơ thị trường thì họ cũng có quyền đòi hỏi không chỉ là những quy định mang tính ưu đãi chung mà còn phải có cả sự công bằng, sòng phẳng về quyền và nghĩa vụ giữa họ với người đứng đầu tổ chức KH&CN trong việc đại diện và “dẫn dắt” cuộc sống tương lai của họ. Mà dường như, cơ chế để đảm bảo cho mối quan hệ này đang còn bỏ ngỏ. Chúng ta trao quyền rất lớn về hành chính và kinh tế cho thủ trưởng tổ chức KH&CN nhưng lại chỉ ràng buộc trách nhiệm về hành chính một cách khá lỏng lẻo. Phải chăng đây cũng là một trong những rào cản về tâm lý cản trở sự đồng thuận của tập thể CBCNV, làm giảm áp lực và động cơ chuyển đổi sang hình thức tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN, đồng thời cũng gián tiếp tạo ra sự chậm trễ và khó khăn trong lộ trình triển khai thực hiện Nghị định 115. Bởi vì xét trên cả 4 phương diện chính sách, pháp lý, xã hội và tâm lý nhu cầu cá nhân thì CBCNV có quyền tự quyết và họ cũng chỉ sẵn sàng bước sang mô hình hoạt động tự chủ, tin tưởng trao quyền quyết định cho thủ trưởng tổ chức KH&CN nếu người thủ trưởng có quyền hạn cùng với trách nhiệm rõ ràng và tương xứng.
Do vậy, ngoài việc tiếp tục tăng cường ưu đãi và quyền tự chủ cho tổ chức KH&CN, cần thiết và cấp bách phải xây dựng được cơ chế đánh giá kết quả trong các văn bản sắp được sửa đổi, bổ sung. Xét cho cùng thì pháp luật nói chung và Nghị định 115 nói riêng trước hết phải vì quyền lợi CBCNV, sau đó là đảm bảo sự công bằng trong các mối quan hệ xã hội, tạo tiền đề phát triển đất nước, nên việc xây dựng cơ chế giám sát, đánh giá hoàn chỉnh cũng là vì các mục tiêu này. Quy trình đánh giá phải thể hiện được 4 vấn đề cơ bản là: Thẩm quyền, quy trình, tiêu chí và xử lý kết quả đánh giá. Trên bình diện rộng hơn, thông qua hoạt động tổng kết, đánh giá tổ chức KH&CN có thể đánh giá Nghị định 115 với 4 nội dung chính: Việc thực hiện có đáp ứng được yêu cầu quản lý và mục tiêu quản lý đề ra hay không? Xác định được những gì cần thay thế, có phù hợp hay không phù hợp. Cách thức để hoàn thiện cơ chế, chính sách và khả năng đáp ứng về mặt tài chính cho việc thực hiện cơ chế, chính sách.
Tóm lại, quá trình đưa tinh thần doanh nghiệp vào tổ chức KH&CN, tạo cho nhà khoa học nói chung và thủ trưởng tổ chức KH&CN có tinh thần “kinh - thương” không nên dừng lại ở việc chỉ tạo ra động lực thông qua các điều kiện thuận lợi về tài chính, tổ chức, hoạt động mà còn phải đưa vào đó cả sự công bằng, sòng phẳng của các quan hệ mang tính thị trường, tài sản gắn với trách nhiệm quản lý mang tính hành chính. Nói cách khác, bằng việc tạo ra các cơ chế khuyến khích song hành cùng cơ chế giám sát, đánh giá và xử lý phù hợp, chúng ta mong muốn nhà khoa học không những phải biết “dấn thân” theo tinh thần của người làm khoa học mà còn phải có lòng dũng cảm, sự tự tin của doanh nhân. Tất cả sự thay đổi dù là nhỏ nhất đều bắt đầu từ nhận thức và sự thay đổi trong tư duy của nhà khoa học cũng phải bắt đầu từ việc dám đối mặt với trách nhiệm và thử thách để đạt được thành công trong hoạt động khoa học - kinh tế - xã hội./.