Chiều 31/10/2022, tiếp tục nội dung thảo luận về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Bộ trưởng KH&CN Huỳnh Thành Đạt đã tham gia giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm.
Tại phiên họp, nhiều đại biểu bày tỏ băn khoăn về các nội dung như: đánh giá, đo lường hiệu quả đầu tư ngân sách nhà nước cho KH&CN; xử lý nguồn vốn tồn đọng tại Quỹ phát triển KH&CN tại doanh nghiệp; thu hút nguồn lực xã hội đầu tư cho KH,CN&ĐMST…
Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đầu tư cho khoa học và công nghệ
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đầu tư cho KH&CN. Mặc dù, chưa có cơ sở tổng hợp, xác định thực tế chi ngân sách nhà nước cho KH&CN có đạt hay không so với mức quy định, nhưng trong bối cảnh cân đối chi NSNN còn khó khăn, chi thường xuyên cho KH&CN vẫn luôn được Quốc hội thông qua trung bình khoảng 0,79% tổng chi NSNN.
Theo Bộ trưởng, mặc dù hoạt động KH&CN là hoạt động có nhiều tính đặc thù (bản chất nghiên cứu khoa học là có tính mới, tính rủi ro và có độ trễ; các nghiên cứu được triển khai trong nhiều giai đoạn và nhiều kết quả nghiên cứu thành công còn cần tiếp tục được đầu tư từ nguồn lực NSNN hoặc nguồn lực xã hội để phát huy trong thực tế), nhưng thời gian vừa qua Bộ KH&CN cũng đã cố gắng hình thành một hệ thống các chỉ tiêu thống kê để qua đó phản ảnh được tình hình và kết quả hoạt động khoa học và công nghệ chủ yếu của đất nước; làm cơ sở trong việc đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ từng thời kỳ.
Cụ thể, Bộ KH&CN đã ban hành Thông tư số 03/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành KH&CN và phân công thu thập, tổng hợp các chỉ tiêu thống kê quốc gia về KH&CN.
Bộ trưởng cho biết, trong giai đoạn vừa qua, đóng góp của KH&CN vào phát triển KT-XH có thể được đánh giá gián tiếp thông qua một số chỉ tiêu bao gồm: Chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng; Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân; Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá; Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam (GII); Số lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; Số lượng bài báo công bố quốc tế của Việt Nam; Cơ cấu đầu tư cho KH&CN từ NSNN và từ doanh nghiệp; Số đơn đăng ký bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích của người nộp đơn có quốc tịch Việt Nam. Giai đoạn 2016-2020, các chỉ tiêu này đều có tăng trưởng tốt hơn nhiều so với giai đoạn trước đó.
Xây dựng bộ chỉ số đổi mới sáng tạo
Từ năm 2013 đến nay, Bộ cũng đã thực hiện xây dựng và công bố sách trắng hằng năm. Cách đây vài ngày sách Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2021 đã được Bộ chuyển qua Thư viện Quốc hội để gửi tới các quý vị Đại biểu.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ KH&CN cũng đang phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới và các tổ chức liên quan xây dựng bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương và tổ chức đánh giá thử nghiệm tại một số địa phương nhằm đo lường năng lực ĐMST và kết quả ĐMST của từng địa phương, đồng bộ với chỉ số ĐMST toàn cầu (GII) của Việt Nam, qua đó có thể đánh giá được mối tác động giữa các hoạt động KHCN&ĐMST với phát triển Kinh tế - Xã hội ở từng vùng, miền.
Tuy vậy, qua công tác theo dõi, quản lý, giám sát, Bộ KH&CN cũng thấy rằng: KHCN&ĐMST chưa thực sự là động lực và nền tảng cho phát triển KT-XH; Còn tồn tại tình trạng nhiệm vụ KH&CN chưa bám sát với yêu cầu sản xuất và đời sống; các chương trình và nhiệm vụ KH&CN chưa góp phần hình thành các lĩnh vực công nghệ hay ngành hàng mũi nhọn; nhiều kết quả KH&CN từ các nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách còn chậm được ứng dụng trong thực tiễn do các vướng mắc về quản lý tài sản công; hệ thống thông tin, thống kê về KH&CN chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, tính hệ thống, độ tin cậy. Bộ KH&CN sẽ tiếp tục tổ chức và thực hiện các giải pháp để giải quyết các tồn tại này trong thời gian tới.
Thu hút nguồn lực xã hội đầu tư cho KHCN&ĐMST và Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp
Việc thu hút nguồn lực xã hội đầu tư cho KHCN&ĐMST luôn là vấn đề được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo. Khoảng 10 năm trước đây, kinh phí hoạt động KH&CN chủ yếu dựa vào NSNN (chiếm khoảng 70-80% tổng đầu tư cho KH&CN), thì đến nay đầu tư cho KH&CN từ NSNN và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%. Trong giai đoạn đến 2030, cần phấn đấu tỷ trọng này đạt mức 70/30 như trung bình của các nước có nền KH&CN tiên tiến.
Để thực hiện định hướng này, Chiến lược phát triển KHCN&ĐMST đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 cũng đã xác định rõ: “Đổi mới hệ thống sáng tạo quốc gia lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trường đại học, viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu mạnh. Tăng cường thiết chế hợp tác công - tư, đối ứng đồng tài trợ giữa Nhà nước và doanh nghiệp cho các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp có sự hợp tác tham gia của viện, trường.".
Về Quỹ phát triển KH&CN của DN, theo số liệu thống kê của Tổng cục thuế, trong giai đoạn 2015-2021, có tổng số 1.281 lượt doanh nghiệp trích lập Quỹ với tổng số tiền trên 23.895 tỷ đồng, trong đó số sử dụng trên 14.411 tỷ đồng, chiếm khoảng 60,3%. Có thể thấy rằng số DN đã thực hiện trích lập Quỹ là khá khiêm tốn. Chỉ một số DN lớn như Viettel, PVN, VNPT,... có khả năng trích lập Quỹ với số tiền tương đối lớn.
Việc trích lập và sử dụng Quỹ hiện nay có vướng mắc, khó khăn, cụ thể như: Tỷ lệ trích lập Quỹ chưa phù hợp với cơ cấu và quy mô của doanh nghiệp Việt Nam trong đó một phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ; Gần như không có doanh nghiệp FDI nào trích lập Quỹ cho thấy cơ chế khuyến khích trích lập và sử dụng Quỹ chưa đủ hấp dẫn; Quy định hiện nay không cho phép sử dụng Quỹ để mua sắm máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ phục vụ trực tiếp cho hoạt động SXKD; Các quy định về quản lý Quỹ không phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc triển khai các hoạt động chi của Quỹ; Thủ tục hành chính trong kiểm soát chi của Quỹ chưa linh động và chưa phù hợp với đặc thù của Quỹ; Thủ tục mua sắm phục vụ nhiệm vụ KH&CN sử dụng Quỹ thực hiện theo thủ tục của dự án đầu tư chưa phù hợp với đặc thù tính mới, tính hiếm, tính kịp thời, tính rủi ro cao của hoạt động KH&CN
Thực hiện Nghị quyết 43 của QH và Nghị quyết 11 của CP, để tháo gỡ một phần các khó khăn, vướng mắc này, Bộ KH&CN đã ban hành Thông tư số 05/2022/TT-BKHCN hướng dẫn sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp. Thông tư số 05/2022/TT-BKHCN đã bãi bỏ các quy định cứng nhắc, không đúng với tinh thần tôn trọng vai trò tự chủ của doanh nghiệp trong hoạt động quyết định định hướng, nội dung nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trong việc tổ chức quản lý nhiệm vụ KH&CN tại doanh nghiệp sử dụng nguồn từ Quỹ. Thông tư cũng đã tập hợp, làm rõ nhiều nội dung chi từ Quỹ, đặc biệt là chi cho việc mua máy móc, thiết bị cho đổi mới công nghệ phục vụ trực tiếp hoạt động sản xuất, kinh doanh, quy định các cơ chế đặc thù sử dụng Quỹ cho hoạt động nghiên cứu, phát triển, làm chủ công nghệ trong doanh nghiệp nói chung trong đó có doanh nghiệp nhà nước về viễn thông, công nghệ số. Bộ Tài chính hiện đang xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn về nghĩa vụ thuế khi doanh nghiệp trích lập và sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để khuyến khích hơn nữa việc doanh nghiệp trích lập và sử dụng Quỹ phát triển KH&CN trong giai đoạn tới, Bộ KH&CN sẽ đề xuất Chính phủ giao Bộ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành trong quá trình nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các quy định của Luật KH&CN 2013, Nghị định 95/2014/NĐ-CP về cơ chế tài chính và đầu tư cho KH&CN để nghiên cứu, đề xuất thêm các giải pháp tăng tính hấp dẫn đối với DN trong việc trích lập và sử dụng Quỹ, đồng thời nghiên cứu, tham mưu Chính phủ báo cáo Quốc hội về cơ chế đặc thù trong mua sắm, đầu tư từ nguồn của Quỹ cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Về vấn đề nhiệm vụ khoa học, công nghệ dừng thực hiện mà đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (đoàn Bình Phước) đã nêu trong phiên thảo luận, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nêu rõ, theo Báo cáo số 2273 của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 26/9/2022 gửi Đoàn giám sát của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, trong cả giai đoạn 2016-2021 có 86 nhiệm vụ khoa học, công nghệ cấp quốc gia, chiếm 4% tổng số nhiệm vụ được xử lý dừng thực hiện theo quy định, vì các nguyên nhân khách quan, chủ quan. Bộ cũng đã báo cáo thông tin chi tiết về việc xử lý đối với từng nhiệm vụ.
Bộ KH&CN cũng rất mong các Đại biểu Quốc hội ghi nhận quan điểm đặc thù của hoạt động nghiên cứu KH&CN, đó là không thể nào 100% nhiệm vụ, đề tài nghiên cứu đều thành công. Vì nghiên cứu khoa học là hoạt động dấn thân, thám hiểm của các nhà khoa học vào các vấn đề, lĩnh vực có tính mới, do đó ngay cả một hướng nghiên cứu không thành công cũng là đóng góp có giá trị cho việc phát triển khoa học và công nghệ.
Bài, ảnh: PV