|
|||
Đổi mới công nghệ còn chậm
Theo số liệu của Cục Ứng dụng và phát triển công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) trong 20 năm qua, nhóm ngành công nghiệp có sử dụng công nghệ cao tăng bình quân 14,6%/năm, công nghệ trung bình tăng 12,2%, công nghệ thấp tăng 9,8%/năm. Sự tăng trưởng này phản ánh quá trình cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, tạo sản phẩm tiêu dùng có giá trị gia tăng cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đã có khảo sát về tình hình sử dụng thiết bị - công nghệ và tư vấn công nghệ của các DN Việt Nam. Theo đó, 100 DN ở Hà Nội và TP.HCM đã được khảo sát và thực trạng yếu kém trong lĩnh vực trên của DN đã thể hiện rõ: Mức đầu tư cho đổi mới thiết bị - công nghệ của DN chỉ chiếm 3% doanh thu cả năm.
Cũng theo kết quả khảo sát, đa số sử dụng công nghệ của những năm 80 của thế kỷ trước, 69% DN phụ thuộc vào nguyên vật liệu, 52% phụ thuộc vào thiết bị, công nghệ nhập khẩu và 19% DN lệ thuộc vào bí quyết công nghệ. Số cán bộ, kỹ thuật có chuyên môn của DN cũng chỉ đạt 7%.
Theo UNDP, tỷ lệ nhập khẩu công nghệ, thiết bị mỗi năm của các nước đang phát triển thường gần 40% tổng kim ngạch nhập khẩu nhưng ở Việt Nam, tỷ lệ này rất thấp (dưới 10%). Còn kết quả khảo sát Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy, trình độ công nghệ cũng như mức độ làm chủ công nghệ của các DN công nghiệp Việt Nam thuộc hàng thấp và chậm so với khu vực.Thực tế cho thấy, khoảng 30 năm trước, Thái Lan, Malaysia, thậm chí Hàn Quốc, chỉ có trình độ phát triển tương đương Việt Nam. Nhưng bây giờ, các nước này đã vượt qua Việt Nam rất xa. Như trong lĩnh vực dệt may chẳng hạn, công nghệ, thiết bị đã gần 15 tuổi, thuộc dạng phế thải của Hàn Quốc, nhưng nhiều DN dệt may Việt Nam cũng vẫn nhập để đưa vào sản xuất.
Nhìn vào địa phương có tốc độ phát triển kinh tế lớn như TP.HCMcũng thấy rõ mức độ “trì trệ” của phát triển công nghệ. Đề án đổi mới công nghệ công nghiệp sản xuất phục vụ chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trên địa bàn thành phố này đã triển khai trên 2 năm, nhưng kết quả thu được còn hạn chế. Hiện Sở Khoa học Công nghệ mới đánh giá trình độ công nghệ được 429 DN, trong đó chỉ 1% DN có công nghệ tiên tiến.
Đề án cũng phát phiếu điều tra tới 1.000 DN về nhu cầu đổi mới công nghệ nhưng chỉ nhận lại được 50 phiếu. Còn Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ cũng chỉ mới cho vay được 4 DN, với khoảng 20 tỷ đồng.
Cú hích nào?
Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH, nhằm mục tiêu đến năm 2020, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu này sẽ khó đạt được nếu không có các giải pháp quyết liệt và mạnh mẽ để thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các ngành, lĩnh vực, nhất là ở khu vực DN, khu vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Trước thực tế đó, ngày 10/5/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 677/QÐ-TTg phê duyệt Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020. Chương trình thật sự được coi là đòn bẩy giúp DN đổi mới công nghệ thông qua các ưu đãi về cơ chế chính sách, tài chính, thuế... Chương trình đã đề ra các giải pháp cụ thể: Tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ; phối hợp và triển khai đồng bộ các chương trình đề án, dự án có liên quan đổi mới công nghệ; tăng cường nguồn lực tài chính thực hiện chương trình; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, khuyến khích sáng tạo công nghệ. Các giải pháp nói trên đã thể hiện rõ quan điểm: DN là trung tâm của hoạt động đổi mới công nghệ để tạo ra các sản phẩm có chất lượng, có giá trị gia tăng cao phục vụ hiệu quả nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Kết quảđiều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy tới 90% các DN được hỏi đánh giá áp lực cạnh tranh là động lực lớn nhất để DN quyết định đầu tưđổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm để có thể tồn tại và mở rộng thị trường trong nước, quốc tế. Điều đó có nghĩa là một khi DN còn được bảo hộ, được hưởng vị thếđộc quyền và chưa phải đối mặt với cạnh tranh thì họ sẽ còn chần chừ trong đầu tưđổi mới công nghệ. Thiếu vốn, thiếu thông tin về công nghệ và những hạn chế trong pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ chỉ là những cản trở tiếp theo.
Một số chuyên gia cũng phân tích: Ngoài những lý do nói trên, còn một số nguyên nhân khách quan nữa khiến việc đổi mới công nghệ, thiết bị của đại đa số DN dẫm chân tại chỗ như: DN đang thiếu thông tin về các công nghệ mới trên thị trường; chi phí đầu tư cho công nghệ lớn hơn rất nhiều chi phí đầu tư cho sản xuất thông thường nên chủ yếu là DN thiếu vốn để đầu tư đồng bộ một dây chuyền; đầu ra của sản phẩm công nghệ cao ở Việt Nam còn nhỏ hẹp; tiêu chuẩn công nghệ áp dụng ở Việt Nam lạc hậu hơn thế giới nên nhiều DN chần chừ... Đó là chưa kể đến việc cần có quỹ đầu tư mạo hiểm để giúp DN yên tâm khi quyết định đầu tư.
Một chuyên gia của Bộ Khoa học Công nghệ đã phân tích 5 thất bại mà các DN Việt Nam thường gặp phải khi thực hiện chuyển giao công nghệ là: Không hình thành được một kế hoạch bài bản; thiếu phân tích tình hình; thiếu khả năng quản lý dự án; không tìm kiếm đúng công nghệ; thiếu khả năng đàm phán, soạn thảo hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Các chuyên gia nhận định, chậm đổi mới công nghệ, đặc biệt là những ngành hàng xuất khẩu chủ lực, những thua thiệt về khả năng phát triển thị trường xuất khẩu sẽ không còn là nguy cơ nữa mà đang trở thành một thực tế khó tránh khỏi. Chỉ khi nào giải quyết được những vướng mắc trên, chừng đó, bài toán đổi mới công nghệ trong DN mới thực sự có lời giải./.
Minh Châu |