Mẩu tin nhỏ cũng có thế gây “bão”
Câu chuyện thứ 1: ăn bưởi có nguy cơ ung thư vú
Giữa tháng 7/2007, một số báo chí nước ngoài như BBC New và Daily Mail (Anh) đã công bố thông tin “Phụ nữ ăn nhiều bưởi sẽ có nguy cơ ung thư vú”. Một số tờ báo trong nước trích dẫn nguồn tin này và gây ra sự nhầm lẫn rất tai hại. Ngay sau đó, giá bưởi tại Đồng bằng Sông Cửu Long đã bị “rớt” từ 8.000-10.000/kg xuống còn 1.000 đồng/kg nhưng vẫn tiêu thụ rất chậm, nhiều người dân đã phải đốn bỏ cây bưởi vì hiệu quả kinh tế. Mặc dù, đã có nhiều cuộc hội thảo, nhiều nhà khoa học nông lâm có uy tín của Việt Nam lên tiếng trấn an dư luận đồng thời đưa ra nhiều bằng chứng khẳng định bưởi Việt Nam không liên quan. Tuy nhiên, thông tin nói trên vẫn gây ảnh hưởng tâm lý nặng nề đối với người tiêu dùng và gây thiệt hại nghiêm trọng đến người trồng bưởi.
Câu chuyện thứ 2: Cơn sốt Aslem và cú lừa ngoạn của các nhà thuốc
Hay như gần đây là vụ thông tin về, trên một số phương tiện thông tin đại chúng có đưa tin về việc sử dụng thuốc Aslem trong điều trị các bệnh ung thư làm cho nhiều người bệnh đã tự đi tìm mua thuốc để sử dụng mà không theo hướng dẫn sử dụng của thầy thuốc; một số cơ sở bán lẻ thuốc đã lợi dụng để bán thuốc với giá cao, ảnh hưởng quyền lợi của người dân… Sau khi kiểm tra các thông tin và hồ sơ đăng ký sản xuất, lưu hành thuốc lưu tại Cục Quản lý dược, Cục cho biết, đây là thuốc phải được kê đơn, sử dụng theo đúng chỉ định của thầy thuốc và chỉ được bán khi có đơn của thầy thuốc chuyên khoa. Như vậy, thuốc Aslem không phải là thuốc điều trị ung thư nói chung như một số phương tiện thông tin đại chúng đã đưa tin, mà chỉ có tác dụng phối hợp trong điều trị ung thư theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa. Sau khi có thông tin thuốc Aslem có thể chữa được ung thư, giá thuốc này đã tăng vùn vụt, thậm chí khan hàng. Giá thuốc này đã tăng từ 250.000 đồng/hộp lên 290.000 đồng/hộp có nơi còn bán hơn 300.000 đồng/hộp trong khi giá bán cách đây 5- 6 tháng khoảng 100.000 đồng/hộp. Trong khi đó, theo đại diện Công ty Dược Vĩnh Phúc, giá bán buôn của công ty này là 250.000 đồng/hộp 10 ống và khi bán lẻ các cửa hàng có thể cộng thêm 10- 15% giá nhập.
Câu chuyện thứ 3: Mắm tôm- dù được minh oan nhưng vẫn không thể “gượng dậy”
Có lẽ, trong suốt thời gian diễn ra dịch tả, người ta nhắc nhiều đến mắm tôm và câu chuyện xung quanh món ăn được xem là “hồn quốc túy” này cũng khá sôi nổi. Ngày 31/10, khi các phương tiện thông tin đại chúng đưa thông báo: 90% số người bị tiêu chảy cấp tính có ăn mắm tôm ngay lập tức, Hà Nội đã có văn bản đình chỉ sử dụng mắm tôm, mắm tép trong hoạt động chế biến, kinh doanh của các quán ăn, siêu thị và dịch vụ ăn uống đường phố. Đến ngày 2/11, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu đã ra lệnh truy tìm nguồn gốc ổ phát tán dịch. Nghi phạm số một là mắm tôm. Nhấn mạnh việc tiêu hủy số mắm tôm hiện có khi sản phẩm này bị tạm ngừng sử dụng vì "Nếu người dân đem đổ mắm tôm ra môi trường thì rất nguy hiểm, vi khuẩn gây bệnh sẽ phát tán ra ngoài" - ông Triệu nói. Ngày 7/11/2007, Bộ Y tế ra quyết định “khai tử” mắm tôm: “Các địa phương có dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm lưu hành tiến hành ngay việc ngừng mua, bán, sử dụng mắm tôm hiện là nguồn lây truyền dịch bệnh; thực hiện thu gom tại chỗ, cách ly để xử lý diệt mầm bệnh, không chuyên chở ra khỏi địa điểm thu gom khi chưa được xử lý diệt mầm bệnh.”. Tất nhiên, phê chuẩn cho lệnh khai tử này được giải thích là có sự góp ý của "hội đồng chuyên môn". Kể từ đó mắm tôm thành “tội đồ lịch sử”, ai cũng hất hủi và mắm tôm không thanh minh được, vì chỉ tại nó là mắm tôm.
Theo nhiều phân tích, mắm tôm chỉ là một yếu tố nguy cơ có liên quan đến tiêu chảy cấp khi tiến hành điều tra dịch tễ học, nó không phải là căn nguyên như một số phát biểu của giới chức y tế có thẩm quyền thông qua báo chí rằng bệnh "tiêu chảy cấp tính nguy hiểm" là do ăn mắm tôm (vì thấy có đến 80% bệnh nhân nhập viện tiêu chảy này là do ăn mắm tôm!). Cách giải thích và diễn dịch không rõ nghĩa này đã vô tình coi như mắm tôm là tội đồ, là nguyên nhân đích thực của đợt dịch tiêu chảy này. Chúng ta cần phải hiểu rõ là việc đa số người bệnh nhập viện đó có ăn mắm tôm, thì xem ăn mắm tôm là yếu tố nguy cơ cao trong vụ dịch này cũng chưa thể đủ kết luận một khi chưa có một nghiên cứu dịch tễ học nghiêm túc. Phản ứng mạnh mẽ nhất về quyết định này là GS.TS Nguyễn Lân Dũng, chuyên gia cao cấp Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Chủ tịch Hội các ngành sinh vật học Việt Nam và là Tổng Thư ký Hội Vi sinh vật học Việt Nam. Theo GS Dũng: mắm tôm nguyên chất với độ mặn như thế thì không có vi khuẩn tả nào sống được.
Sau lệnh cấm đó, nhiều làng nghề đã và đang lâm vào cảnh “vắng hoe chợ chiều” vì hàng sản xuất ra không thể bán được, kể cả đến giờ, lệnh cấm đã rút...Trách nhiệm này thuộc về ai.
Ranh giới giữa nhà khoa học viết báo và nhà báo viết khoa học
Có một ranh giới rõ ràng giữa hai vị trí này. Điểm khác nhau là nhà khoa học thì đi sâu vào những vấn đề mang tính chi tiết, tiểu tiết còn nhà báo viết khoa học thì nặng về vấn đề tính thông tin phổ quát cho đại chúng.
Điểm tương đồng ở đây là đều xuất phát từ vấn đề chung đó là công chúng.
Bản chất của khoa học là không chính xác, nhất là những vấn đề khoa học mới. Khoa học là luôn tìm tòi, phát triển để tìm kiếm cái mới nên nó không thể khẳng định ngay được vấn đề. Còn những gì đã là chân lý thì đã được ghi nhận rồi, đâu cần phải bàn luận. Vì vậy, trước khi đưa thông tin khoa học, nhà báo nên tham vấn ý kiến của nhiều nhà khoa học hoạt động trong lĩnh vực đó. Nhà báo cần có sự nhạy cảm xã hội nhất định, và trên hết cần có lý trí để tránh việc thổi phồng hay giật tin câu khách. Nhà báo không nên đi sâu vào những vấn đề quá chuyên sâu mà trước những vấn đề có tính nhạy cảm, nên tổ chức lấy ý kiến các nhà khoa học. Còn rất vấn đề đã trở nên trầm trọng thì đã có sự vào cuộc của các cơ quan quản lý, cơ quan nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên cũng cần lưu ý, vấn đề của báo chí hiện nay là phải biết mình đang phỏng vấn ai, phỏng vấn có đúng người hay không bởi hiện có rất nhiều trường hợp lợi dụng báo chí để đánh bóng tên tuổi hay sản phẩm nghiên cứu của mình.
Qui ước Ingelfinger
Năm 1969, bác sĩ Franz J. Ingelfinger (1910-1980) được bổ nhiệm làm tổng biên tập tập san New England Journal of Medicine (NEJM), một tập san có lịch sử trên 100 năm và cho đến nay vẫn là tập san số 1 trong ngành y. Khi mới nhậm chức, ông phát hiện một số công trình nghiên cứu khoa học đang được xem xét cho in hay sắp in trên tập san NEJM đã được hệ thống truyền thông đại chúng... công bố trước! Không hài lòng trước tình trạng “cầm đèn chạy trước ô tô” này, ông đề ra một qui ước mà sau này được biết đến là Qui ước Ingelfinger. Theo Qui ước Ingelfinger, NEJM sẽ không công bố bất cứ bài báo nào nếu kết quả bài báo đó đã được các cơ sở truyền thông đại chúng đưa tin. Theo Qui ước Ingelfinger, chỉ khi nào bài báo được công bố trên một website hay báo giấy của tập san thì nhà nghiên cứu mới có quyền được tiếp xúc với giới truyền thông đại chúng để nói về thành quả nghiên cứu của mình. Trong thời gian bài báo còn được bình duyệt, hay ngay cả sau khi đã được chấp nhận cho công bố nhưng chưa đưa lên website, nhà nghiên cứu vẫn không có quyền tiếp xúc với truyền thông. Do đó, một khi bản tin được chuyển tải đến công chúng, thì các chi tiết về ý tưởng, phương pháp, kết quả, và diễn giải của công trình nghiên cứu được phê bình và duyệt qua bởi những chuyên gia trong ngành, và đảm bảo chất lượng của thông tin. Nếu không qua khâu “nội bộ” này thì công chúng không thể biết công trình nghiên cứu đó có giá trị khoa học ra sao, phương pháp đúng hay sai, cách suy luận có quá đà hay không...
|
Minh Châu
|