|
|||||||||||
Bộ KH - CN, tiền thân là Ủy ban Khoa học Nhà nước, được thành lập theo Sắc lệnh số 016-SL ngày 4/3/1959 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong suốt chặng đường xây dựng và phát triển, Bộ KH&CN không ngừng khắc phục khó khăn, phấn đấu thực hiện tốt nhất trọng trách của một cơ quan tham mưu, giúp Đảng và Chính phủ quản lý thống nhất, nhằm phát triển KH&CN trong phạm vi cả nước. Sau đây là nội dung buổi gia lưu trực tuyến với chủ đề" 50 năm Khoa học và Công nghệ Việt Nam":
Thời gian qua, có không ít tranh luận về vai trò, vị trí cũng như đóng góp của KH-CN cho sự phát triển của đất nước... Ở góc độ Bộ KH-CN, Bộ trưởng nhìn nhận vấn đề này như thế nào?(Phạm Thúy Hồng, 28 tuổi, Nữ, Hà Nội) - Bộ trưởng Hoàng Văn Phong: Tôi xin khẳng định KH-CN VN đóng góp vai trò quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước trong mọi thời kỳ: giai đoạn đầu tiên sau khi được thành lập Bộ KH-CN (1959-1975), các công trình của các giáo sư Lương Đình Của, Bùi Huy Đáp... đã đảm bảo lương thực, thực phẩm cho hậu phương lớn ở miền Bắc và tiền tuyến miền Nam trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Các công trình của các nhà khoa học, như của giáo sư Đàm Trung Đồn, Vũ Đình Cự... về chống nhiễu ra-đa, chống bom và thủy lôi từ trường, góp phần quan trọng vào việc đánh bại chiến tranh phá hoại tại miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nước. Một số ý kiến cho rằng, dường như chỉ thấy những “Hai Lúa” – “Kỹ sư chân đất” có những sáng tạo khoa học – kỹ thuật để đáp ứng một nhu cầu nào đó trong sản xuất của người nông dân... KH-CN đã có những đóng góp cụ thể như thế nào cho nông nghiệp của đất nước? - (Đào Thị Minh Công, 25 tuổi, Nữ , Yên Bái) - Bộ trưởng Hoàng Văn Phong: Chúng ta rất vui mừng vì có nhiều bà con nông dân có những sáng kiến cải tiến KH và với những sáng kiến đó đã tạo được những sản phẩm: máy móc, thiết bị... phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt tại địa phương. Bộ KH-CN đã xác định có 5 lực lượng chính tham gia và đóng góp vào hoạt động KH-CN:
Có lần, Bộ trưởng phát biểu, “muốn khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, phải hình thành những doanh nghiệp mạnh, tiên phong trong việc đổi mới công nghệ”, nhưng thực tế, các doanh nghiệp mạnh, tiên phong trong việc đổi mới công nghệ ở VN chưa nhiều...C òn những vướng mắc, trở ngại nào khiến DN ở ta chậm đổi mới công nghệ? Bộ KHCN sẽ làm gì để giải quyết vấn đề này? (Cao Kim Kiên, 35 tuổi, Nam, Thái Bình). - Bộ trưởng Hoàng Văn Phong: KH&CN muốn trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì trước hết kết quả nghiên cứu của các nhà KH phải trở thành công cụ, phương tiện trong quá trình sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp. Tiếp theo, bản thân các nhà KH tạo ra những sản phẩm có thể là hữu hình hoặc vô hình, có giá trị thương mại, có thể trao đổi mua bán trên thị trường, khi đó, các nhà KH sẽ trở thành chủ thể của quá trình sản xuất ra sản phẩm, hàng hóa. Theo Nghị định số 62/2008/NĐ-CP ngày 12/05/2008 do Thủ tướng Chính phủ ban hành, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên và phát triển công nghệ theo các hướng trọng điểm của Nhà nước nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho công tác quản lý khoa học, công nghệ và xây dựng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đào tạo nhân lực khoa học, công nghệ có trình độ cao cho đất nước theo quy định của pháp luật. Đây là một nhiệm vụ rất nặng nề, quan trọng trong việc phát triển KH - CN của đất nước... Ông có thể điểm lại tình hình hoạt động và những đóng góp của Viện trong thời gian qua?
Kính thưa GS. Nguyễn Đăng Vang, Phó chủ nhiệm ủy ban KHCN MT của Quốc hội, với tư cách là Phó chủ nhiệm ủy ban KHCN MT của Quốc hội và ở góc độ của mình, ông đánh giá thế nào về tình hình hoạt động KH-CN của nước nhà? (Vũ Thế Phương, 46 tuổi, Nam, Thái Nguyên) - GS. Nguyễn Đăng Vang: Nói đến hoạt động KHCN, chúng ta thường suy nghĩ đây chỉ là công tác nghiên cứu KH ở các viện nghiên cứu, các ĐH và một số DN. Về mặt xã hội, chúng ta lại muốn KH phải đóng góp thiết thực và ứng dụng vào sản xuất. Thực tế nghiên cứu KH mới chỉ là công đoạn một trong hoạt động KHCN nói chung. Theo một đánh giá của Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, năng lực KHCN quốc gia nói chung còn thấp, quy mô nhỏ hẹp. Điều tra tiềm lực KHCN của Bộ KH&CN cũng cho thấy, tuổi đời của cán bộ khoa học khá cao, hầu hết là giáo sư và phó giáo sư gần 60 tuổi, số dưới 50 tuổi chỉ chiếm 12%. Số lượng tiến sĩ hơn 10.000 người nhưng trình độ so với chuẩn quốc tế rất thấp, chỉ khoảng 25% số cán bộ khoa học có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh và chúng ta đặc biệt thiếu các chuyên gia và tổng công trình sư. Ủy ban cùng với Bộ KH&CN, các cơ quan chức năng phối hợp như thế nào để thúc đẩy KHCN phát triển? (Phan Ngọc Hà, 35 tuổi, Nữ, Hải Dương) - GS. Nguyễn Đăng Vang: Những con số trên là thực tế, nhưng còn thiếu số liệu điều tra tại các doanh nghiệp. Hiện nay, có sự dịch chuyển lớn cán bộ nghiên cứu từ các viện sang doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn. Mỗi năm có thêm 1 triệu sinh viên ĐH thì sau 4 năm, chúng ta sẽ có lực lượng KHCN khoảng 1 triệu người. Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường (KHCNMT) giám sát việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi trường như: tình hình thực hiện nhiệm vụ, phân bổ và quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi trường; việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và các bộ, ngành hữu quan... Ông có thể điểm lại những vấn đề mà Ủy ban đã tham gia trong chức trách của mình, như tình hình ngân sách cho KHCN; việc ban hành các quy phạm pháp luật trong hoạt động KHCN? (Nguyễn Thu Giang, 28 tuổi, Nữ, Đồng Nai) - GS. Nguyễn Đăng Vang: Ủy ban KHCNMT của QH được giao thẩm tra các dự án lớn, do Chính phủ trình. Các dự án luật đó là Luật KHCN, Luật chuyển giao tiến bộ KH, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Công nghệ cao, Luật Năng lượng nguyên tử, Luật tần số vô tuyến điện...Các luật này đang được vận dụng trong sản xuất, kinh doanh và trong hoạt động nghiên cứu KH. Trong quá trình vận dụng, một số dự án luật đã được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn. Ngoài ra, có một số luật không hoàn toàn cho KH nhưng có một số chương, điều cho hoạt động KH, như là Luật Ngân sách... Hiện có nhiều ý kiến khác nhau về việc ngân sách chi cho KH - CN... Có dư luận cho rằng, ngân sách chi cho KH - CN như hiện nay là phù hợp, mức chi ngân sách cho KH - CN thấp... Vấn đề đặt ra là việc sử dụng kinh phí Nhà nước cho KH&CN sao cho hiệu quả... Ớ góc độ Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường, ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào?, (Trần Văn Bằng, 43 tuổi, Nam , Ba Đình, Hà Nội) - GS. Nguyễn Đăng Vang: Về câu hỏi này, đúng là có ý kiến cho rằng kinh phí cho KH là quá nhiều, mà không hiệu quả. Có ý kiến lại nói là thấp và đang có hiệu quả. Theo tôi, thì kinh phí hiện nay là quá thấp. Nếu nói 2% GDP chi tiêu ngân sách thì tương đương với 0,4% GDP (của năm 2009) và 0,3% (2007). Theo số liệu đã được quyết toán trình QH trong tháng 6 vừa qua, thì năm 2007 đã chi tiêu cho KHCN là 2.307 tỷ đồng tại các Viện nghiên cứu TƯ, 626 tỷ đồng tại 64 tỉnh thành (nay là 63 tỉnh, thành). Nhưng các nước khác ví dụ như Hàn Quốc, kinh phí đầu tư cho KH là trên 5% GDP. Số tương đối chênh lệch gấp khoảng 12 lần (0,4% GDP). Nhưng so sánh tuyệt đối, thì Hàn Quốc đầu tư trên 50 tỷ USD, trong khi của Việt Nam chúng ta là khoảng 500 triệu USD năm 2009, chênh lệch 100 lần. Năm 2005, Mỹ đầu tư 308 tỷ USD cho KH, thời điểm đó Việt Nam đầu tư khoảng 300 triệu USD, gấp 1.000 lần, còn dân số Mỹ chỉ gấp 4 lần dân số nước ta. Tất nhiên so sánh là khập khiễng, nhưng rõ ràng kinh phí đầu tư lớn đã giúp cho Hàn Quốc phát triển kinh tế với một tốc độ được nhiều nước khâm phục. Xin được nói thêm rằng, nếu chúng ta muốn đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển, thì KHCN áp dụng vào thời điểm đó, do Việt Nam sáng tạo phải được tiến hành nghiên cứu từ bây giờ. Đương nhiên, KH&CN không phải chỉ là nghiên cứu như đã nói ở trên, KHCN còn là hoạt động mua bán công nghệ, chuyển giao công nghệ, áp dụng công nghệ vào sản xuất, thì chúng ta còn phải có kinh phí để khuyến khích nhập công nghệ mới, thích nghi công nghệ mới đó cho phù hợp với Việt Nam, vì thực tiễn không ai chờ đợi kết quả nghiên cứu dài như vậy để phát triển sản xuất. Nguồn kinh phí này vừa qua chưa được sự ủng hộ, nguồn này phải đưa thẳng vào doanh nghiệp. Chẳng hạn, ở Trung Quốc, nếu nhập công nghệ mới vào, công nghệ cao, thì Nhà nước hỗ trợ kinh phí 40% cho năm đầu tiên của chính sách và giảm dần hiện nay là 30%. Ở Hàn Quốc, hỗ trợ công nghiệp hóa nông thôn cho máy móc, Nhà nước hỗ trợ 30%. Việt Nam có Nghị định 119, hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu đổi mới công nghệ, để nâng cao chất lượng sản phẩm và giá trị gia tăng. Gần đây, để đối phó với khủng hoảng kinh tế, Việt Nam đã dành 17.000 tỷ đồng để trợ giúp các doanh nghiệp được vay vốn ưu đãi 4%. Đến nay cũng đã hết thời hạn. Chúng tôi cho rằng, muốn để Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế cao trong dài hạn, thì phải có quan điểm đầu tư kinh phí mạnh hơn cho KHCN mạnh hơn ngay từ bây giờ. Ngày 14/5/2009, Hội nghị trực tuyến phổ biến triển khai Luật Công nghệ cao (CNC) được Bộ KH&CN phối hợp với Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức tại 6 điểm: Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia; Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, các trường ĐH: Vinh, Đà Nẵng, Khoa học Tự nhiên TP HCM, Cần Thơ. Ông đánh giá như thế nào về hoạt động của các Khu công nghệ cao ở nước ta trong thời gian qua? Luật CNC được Quốc hội thông qua vào tháng 11/2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2009 sẽ tạo điều kiện như thế nào để trong thực tế, các doanh nghiệp, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ sẽ nhanh chóng nắm bắt các công nghệ tiên tiến, ứng dụng CNC vào phát triển kinh tế, phục vụ đời sống? - (Nguyễn Hà Anh, 22 tuổi, Nữ , Mai Động, Hà Nội). - GS Nguyễn Đăng Vang: Luật Công nghệ cao đã được QH thông qua tháng 11/2008 và có hiệu lực từ 1/7/2009, đến nay mới được nửa năm, chưa kịp để được thử thách, cũng như chưa có cuộc giám sát nào đối với Luật này. Một vấn đề được dư luận quan tâm là vấn đề sở hữu trí tuệ... Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của Nhà nước Việt Nam đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm hình thành từng bước vững chắc thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học, công nghệ và các thị trường khác của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Việc hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội xem xét, nghiên cứu, giải quyết như thế nào về mặt luật pháp? - (Phạm Tuấn Anh, 32 tuổi, Nam , Ninh Bình) - GS. Nguyễn Đăng Vang: Khi Việt Nam tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thì một trong những yêu cầu mạnh của các thành viên Tổ chức này mà Việt Nam phải thương thảo lúc đó là phải có Luật Sở hữu Trí tuệ (SHTT). Lần đầu tiên chúng ta có Luật đó, cho nên, Chính phủ đã rất công phu để soạn thảo Dự án Luật này. Ủy ban KHCN Môi trường cũng đã khảo sát ở một số nước, trong đó, có Mỹ để hoàn thiện dự án này. Ủy ban KHCN Môi trường của QH mới phối hợp với ban soạn thảo của Chính phủ thẩm tra, sửa đổi và hoàn thiện Dự án Luật. Ngày 29 tháng 6 năm 2009, Luật SHTT đã được sửa đổi và bổ sung một số điều để phù hợp với thực tế. “Hiện nay, để tạo ra 1.000 USD GDP, Việt Nam phải tiêu tốn khoảng 600 kg dầu quy đổi, con số này đang cao gấp 1,5 lần so với Thái Lan và gần gấp hai lần so với mức bình quân chung của thế giới. Ngành điện Việt Nam mỗi năm phải tăng trưởng 15 - 17% mới đáp ứng được yêu cầu tăng 6 - 8% GDP, trong khi bình quân thế giới để tăng 1% GDP thì cũng chỉ tăng 1,2 - 1,5% năng lượng tiêu thụ...” . Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đã cơ bản nhất trí với Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết ban hành Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả... nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, bảo vệ môi trường và ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu. Ông có thể cho biết rõ hơn quá trình tham gia của Ủy ban vào việc chuẩn bị và hình thành Luật trên?, (Nguyễn Hoàng Cảnh, 29 tuổi, Nam , Quảng Ninh). - GS Nguyễn Đăng Vang: Từ tháng 7/2009, Ủy ban KHCN Môi trường của được giao thẩm tra Dự án Luật tiết kiệm năng lượng và hiệu quả. Quá trình thẩm tra cho thấy, đây là một Dự án rất quan trọng. Thưa ông Châu Văn Minh, tôi đi một số nước như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia... hay Đức, Phắp, Mỹ... đều có Viện Bảo tàng khoa học nhằm giáo dục lòng say mê khoa học cho công chúng. Tôi nghe nói ở ta đang lập Viện Bảo tàng thiên nhiên nhưng gặp khó khăn vì xin đất mà không được. Thực chất, do ta chưa ý thức được tầm quan trọng của Viện bảo tàng hay còn vì lý do nào khác? Hay ta thiếu chuyên gia trong lĩnh vực này? Tôi có những tìm hiểu nhất định trong lĩnh vực này và muốn có vài ý kiến cho Viện, ông có sẵn sàng lắng nghe và hồi âm không? Tôi có thể liên hệ với Viện qua địa chỉ email nào? (Trần Thanh Hoài, 60 tuổi, Nam , Cảnh Viên 2, Phú Mỹ Hưng, Q.7 - TP HCM) - GS Châu Văn Minh: Câu hỏi của ông liên quan đến bảo tàng thiên nhiên, tôi vừa trả lời một bạn đọc khác. Xin mời ông tham khảo. Nếu ông có những ý kiến hay trong việc xây dựng bảo tàng thiên nhiên Việt Nam, chúng tôi hoan nghênh và sẵn sàng lắng nghe. Ông có thể gửi trực tiếp ý kiến đóng góp cho Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam (thuộc Viện khoa học công nghệ Việt Nam) theo địa chỉ 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội hoặc liên hệ qua địa chỉ email cho đồng chí Giám đốc - Phó GS,TS Phạm Văn Lực: lucvp@vast.ac.vn. Xin cám ơn sự quan tâm của ông. Chào GS Châu Văn Minh, đọc trên website của Viện KHCN VIệt Nam, tôi có thấy thống kê số liệu về các nhà khoa học của Viện... Nhưng tôi không thấy thống kê về số lượng nhà khoa học nữ. Thoi gian qua, tôi đọc trên báo và được biết có không ít những nhà khoa học nữ đạt được những thành tích nghiên cứu xuất sắc... Ông có thể cho biết về tình hình các nhà khoa học nữ ở Viện: số lượng (nếu có thống kê). Họ đã có những đóng góp như thế nào đối với sự phát triển của Khoa học nước nhà trong những năm gần đấy? Xin cảm ơn ông nếu ông có thể cho ý kiến trả lời về việc này - (Nguyen Thị Trâm Anh, 43 tuổi, Nữ , Mỹ Đình, Hà Nội) - GS Châu Văn Minh: Xin cám ơn câu hỏi của bạn Trâm Anh. Hiện nay, cán bộ nữ của Viện KHCNVN chiếm 30,5% tổng số cán bộ trong biên chế. Tỷ lệ cán bộ nữ có trình độ cao của Viện KHCNVN như sau: GS,PGS chiếm 18,75% tổng số GS,PGS của Viện, TS và TSKH chiếm hơn 20%. Tôi được biết VIện KHCN VIệt Nam có nhiều nghiên cứu mang tính thực tế cao, có thể ứng dụng vào sản xuất, nhưng điều tôi quan tâm là việc chuyển giao công nghệ. Trong thực tế, doanh nghiệp khi cần công nghệ phục vụ cho sản xuất ở đơn vị mình, họ cũng phải đôn đáo chạy khắp nơi tìm kiếm những nơi có công nghệ mà mình đang cần... dường như doanh nghiệp và nhà khoa học vẫn còn khó gặp nhau lắm... theo ông, nguyên nhân là do đâu? Viện có nghĩ đến phương cách nào thích hợp để tiếp thị công nghệ do các nhà khoa học trong nước nghiên cứu đến với doanh nghiệp? - (Quách Thành Thuận, 35 tuổi, Nam , Bình Dương) - GS Châu Văn Minh: Công tác ứng dụng và triển khai công nghệ vào thực tế là một trong những hoạt động được Viện KHCNVN đặc biệt quan tâm, nhất là trong những năm gần đây. Viện đã triển khai nhiều chương trình hợp tác với các doanh nghiệp, các địa phương trong cả nước. Ví dụ, năm 2009, các đơn vị của Viện đã thực hiện khoảng 700 hợp đồng với các doanh nghiệp, địa phương trong cả nước với tổng kinh phí trên 160 tỷ đồng. Nhiều chương trình phối hợp với địa phương và doanh nghiệp mang lại hiệu quả cao. Ví dụ, Viện đã và đang phối hợp với công ty cổ phần Rạng Đông trong việc tối ưu hóa quy trình công nghệ chế tạo đèn huỳnh quang hiệu năng cao. Viện đã nghiên cứu hai phương pháp đo nhiệt độ tóc đèn là phương pháp quang phổ và phương pháp đo điện trở nóng. Ngoài ra, viện còn đang thử nghiệm những giải pháp phù hợp với dây chuyền công nghệ của đèn huỳnh quang Rạng Đông. Viện cũng tiến hành hai phương pháp xác định hàm lượng thủy ngân trong đèn huỳnh quang. Viện cũng sử dụng phương pháp này để xác định nguyên nhân dẫn đến tuổi thọ ngắn của đèn huỳnh quang. Kết quả đã được chuyển giao cho công ty Rạng Đông, kéo dài tuổi thọ của bóng đèn huỳnh quang từ 1.000 giờ lên 5.000 giờ. Ngoài ra, Viện đã tư vấn cho công ty Rạng Đông một chủng loại đèn mới phát sáng nhanh. Năm 2009, công ty lần đầu tiên, sử dụng công nghệ của Viên KHCNVN, sản xuất và xuất khẩu 6 triệu bóng đèn sang thị trường Brazil.
Đội ngũ khoa học, nhà chuyên môn ở Viện khá hùng hậu. Ông có thể cho biết thêm về tình hình nguồn nhân lực KH - CN hiện nay? Ông có trăn trở gì về việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trẻ đủ sức đáp ứng nhu cầu phát triển KH của đất nước trong thời gian tới? - GS. Châu Văn Minh: Viện KHCNVN là một cơ quan NCKH hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản và phát triển công nghệ. Viện có đội ngũ cán bộ khoa học với 2.500 cán bộ trong biên chế, trong đó, có 48 GS, 193 PGS, gần 700 TSKH và TS. Đây là một nguồn nhân lực có trình độ cao rất đáng tự hào của Viện. Đội ngũ này đã đóng vai trò đầu tàu của Viện trong nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho công tác đào tạo sau ĐH và triển khai công nghệ không những trong Viện mà còn ở nhiều cơ sở nghiên cứu và đào tạo trong khắp cả nước. Đặc biệt trong nghiên cứu cơ bản, Viện có số lượng công trình công bố dẫn đầu cả nước, cụ thể: - Từ 2004 đến 2008: Viện công bố 3.985 công trình trên các tạp chí quốc tế và quốc gia, trong đó có 1206 bài báo quốc tế với 725 bài nằm trong danh mục SCI và SCI-E, chiếm gần 50% tổng số công bố quốc tế của cả nước trong nghiên cứu cơ bản. - Năm 2009, số công bố tăng trên 20%, trong đó tạp chí quốc tế tăng trên 50%, so với năm 2008. Vừa qua, công trình chứng minh “Bổ đề cơ bản chương trình Langland” của giáo sư toán học Ngô Bảo Châu, Viện Toán học đã được tạp chí danh tiếng Time (Mỹ) bình chọn là 1 trong 10 khám phá khoa học tiêu biểu năm 2009. Hiện nay, Viện có 18 cơ sở đào tạo sau đại học và đã đào tạo được 636 TS và 1216 Ths. Trong đó, 10 năm đầu (1986-1996) đã đào tạo được 173 TS, 21 Ths; 12 năm trở lại đây (1997-2008) đã đào tạo được 463 TS, 1195 Ths. Đây cũng là một đóng góp không nhỏ vào việc đào tạo cán bộ khoa học trẻ cho đất nước. Tuy nhiên, số cán bộ có trình độ cao tập trung chủ yếu ở Hà Nội và TP HCM và nếu xét về độ tuổi, lực lượng cán bộ trẻ, kế cận chiếm tỷ lệ thấp. Số cán bộ có trình độ cao (GS, PGS, TSKH) của Viện KHCNVN ở độ tuổi dưới 50 chỉ chiếm 13,1%, trong khi đó lực lượng này ở độ tuổi trên 50 chiếm tới 86,9%. Điều này cho thấy yêu cầu đào tại cán bộ trẻ càng trở nên cần thiết. Trong giai đoạn 2001-2006, Viện được Nhà nước đầu tư một số phòng thí nghiệm trọng điểm. Ông có thể cho biết hiệu quả hoạt động của những phòng thí nghiệm trọng điểm này? - (Hoàng Tuấn Ngọc, 32 tuổi, Nam , Thanh Xuân, Hà Nội) - GS. Châu Văn Minh: Với tiềm lực của mình và sự quan tâm của Bộ KHCN, Viện KHCNVN được đầu tư bốn Phòng thí nghiệm trọng điểm (PTNTĐ) trong tổng số 18 PTNTĐ được đầu tư trong toàn quốc. Đó là các PTN trọng điểm về: Công nghệ gen, công nghệ mạng và đa phương tiện, vật liệu và linh kiện điện tử, công nghệ tế bào thực vật. Đây là chủ trương đúng của Nhà nước và Bộ KH&CN trong việc tăng cường đầu tư tiềm lực khoa học công nghệ, nhằm từng bước theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Viện đang tập trung nghiên cứu lĩnh vực công nghệ vũ trụ. Đây là lĩnh vực mới ở Việt Nam. Xin ông cho biết một số nhiệm vụ lớn Viện đang triển khai trong lĩnh vực này? Ta đang có những hợp tác quốc tế nào trong lĩnh vực này?, (Nguyễn Hồng Hải, 56 tuổi, Nam, Hà Nam) - Ông Châu Văn Minh: Khoa học Công nghệ Vũ trụ là ngành quan trọng, mang tính công nghệ cao và đa ngành. Việt Nam không thể không quan tâm đến lĩnh vực này. Là cơ sở KHCN lớn nhất cả nước, Viện KHCNVN tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ trong chiến lược nghiên cứu ứng dụng công nghệ vũ trụ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể là: triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng và phóng vệ tinh nhỏ quan sát trái đất và môi trường, với các nội dung chính: thiết kế, chế tạo, phóng vệ tinh VNREDSAT-1; đào tạo cán bộ để thực hiện chuyển giao công nghệ; triển khai xây dựng hệ thống cơ sở mặt đất của vệ tinh gồm: trạm thu phát tín hiệu điều khiển vệ tinh (tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc), Trung tâm Điều hành và lưu trữ dữ liệu dự phòng tại 18 Hoàng Quốc Việt, Nâng cấp Trạm thu và Trung tâm xử lý ảnh thuộc Trung tâm Viễn thám Quốc gia (xã Minh Khai, Từ Liêm, Hà Nội) và hệ thống thông tin liên lạc kết nối ba cơ sở này với nhau. Viện quyết tâm thực hiện hoàn thành kế hoạch dự kiến phóng thành công vệ tinh vào năm 2012. Ngoài ra, Viện sẽ thực hiện việc Chủ trì và triển khai thực hiện các đề tài KHCN cấp Nhà nước về Công nghệ vũ trụ; hoàn chỉnh, trình Bộ KHCN khung chương trình KHCN vũ trụ cho giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến năm 2020.
Từ nhiều năm nay, các nhà khoa học từng đề xuất xây dựng Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam... nhưng nghe nói gặp nhiều trở ngại, trong khi đây lại là một hướng tốt nhằm giáo dục lòng yêu khoa học, thiên nhiên ở người VN? Ông có ý kiến gì về việc này? - GS. Châu Văn Minh: Đây là một hoạt động khoa học công nghệ và giáo dục mới mẻ ở nước ta và là một hoạt động quan trọng và truyền thống ở các nước phát triển. Bảo tàng thiên nhiên vừa để bảo tồn, nghiên cứu thiên nhiên Việt Nam và thế giới, vừa để đào tạo giáo dục cho nhân dân và thế hệ trẻ về lòng yêu thiên nhiên đất nước, ý thức giữ gìn bảo vệ môi trường, thiên nhiên của đất nước. Chính phủ đã thống nhất chủ trương này và đã phê duyệt Quy hoạch hệ thống bảo tàng thiên nhiên Việt Nam. Viện KHCNVN đã thành lập Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam, thực hiện quy hoạch mạng lưới bảo tàng thiên nhiên Việt Nam và từng bước xây dựng hệ thống bảo tàng thiên nhiên của Việt nam. Viện KH - CN VN đang thực hiện Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên môi trường biển đến 2010, tầm nhìn đến 2020: Điều tra khảo sát trên Biển Đông, hợp tác quốc tế trong điều tra khảo sát Biển Đông... Ông có thể cho biết đôi nét về chương trình nghiên cứu này? - (Tiến Minh, 33 tuổi, Nam , Đà Nẵng). - GS. Châu Văn Minh: Nước ta có bờ biển dài, vùng biển rộng, các nghiên cứu về biển vì thế có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng. Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên môi trường biển đến 2010, tầm nhìn đến 2020 (Quyết định 47/2006/QĐ-TTg ngày 1/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ). Trong đó, Viện KHCNVN được giao chủ trì thực hiện một số nhiệm vụ. Theo ông, đang còn những bất cập, trở ngại nào trong hoạt động phát triển KH - CN ở VN? - (Tiến Lợi, 35 tuổi, Nam, Bà Rịa - Vũng Tàu) - GS. Châu Văn Minh: Đảng và Nhà nước ta đánh giá khoa học và công nghệ là then chốt, là động lực quan trọng để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bằng nhiều chủ trương, chính sách, Đảng và Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm rất lớn đối với khoa học và công nghệ. Bất cập và trở ngại lớn vẫn là nước ta có nền kinh tế chưa phát triển, nền khoa học kỹ thuật của nước ta vẫn còn khoảng cách khá xa so với những nước tiên tiến. Trong khi đó, yêu cầu đầu tư cho khoa học và công nghệ để đẩy nhanh bắt kịp với khoa học của các nước trong khu vực và thế giới là rất cao. Điều này trực tiếp sẽ ảnh hưởng đến điều kiện trang thiết bị phục vụ nghiên cứu cũng như thu nhập của cán bộ nghiên cứu. Một số cán bộ khoa học có trình độ cao chuyển khỏi các Viện nghiên cứu để sang làm việc cho các đơn vị có thu nhập cao hơn cũng xảy ra. Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải đổi mới phương thức và tiêu chí đánh giá cán bộ, không cào bằng, đặc biệt chú trọng đến kết quả thực tế. Từ kết quả đánh giá này sẽ quyết định đến lương, thưởng và các chế độ khác. Ở quy mô Viện KHCNVN, Viện sẽ cố gắng đưa ra những điều kiện phù hợp hơn cũng như tạo ra một môi trường khoa học hấp dẫn hơn để thu hút đông đảo các cán bộ khoa học có trình độ cao ở cả trong và ngoài nước phục vụ đất nước. Trong thực tế, là cơ quan quản lý cao nhất về KHCN, Bộ KHCN đã làm gì để tháo gỡ những vướng mắc trong cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy hoạt động KHCN nước nhà? - (Phạm Thị Nguyệt, 29 tuổi, Nữ , Kiên Giang) - Bộ trưởng Hoàng Văn Phong: Đổi mới cơ chế quản lý các hoạt động KHCN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Bộ KH&CN thực hiện trong những năm qua. Năm 2003, Bộ xây dựng và được Chính phủ phê duyệt đề án mang tiêu đề như trên, gồm 6 nội dung:
|