Chương trình ĐHN của Hàn Quốc được khởi động năm 1958 và hoàn thành việc phát triển cơ sở hạ tầng cùng với việc nội địa hoá công nghệ ĐHN vào năm 1989. Chính phủ Hàn Quốc chính thức khởi động chương trình ĐHN bằng việc ban hành Luật Năng lượng nguyên tử và thành lập Ban Năng lượng nguyên tử thuộc Bộ Giáo dục. Đối với cơ sở hạ tầng ĐHN, Hàn Quốc ký hợp đồng xây dựng lò nghiên cứu đầu tiên (TRIGA Mark-II) với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Viện Nghiên cứu năng lượng nguyên tử Hàn Quốc được thành lập và khoa đào tạo kỹ thuật hạt nhân trình độ đại học đầu tiên được mở năm 1958 để đạo tạo kỹ sư hạt nhân cho những dự án điện trong tương lai.
Năm 1961, Tập đoàn Điện lực Hàn Quốc (KEPCO) được hình thành để hỗ trợ kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (bắt đầu vào năm 1962). Năm 1964, Ban Năng lượng nguyên tử và Viện Nghiên cứu năng lượng nguyên tử Hàn Quốc tập trung vào việc ứng dụng đồng vị phóng xạ cho y tế và nông nghiệp. Từ 1964 đến 1966, Hàn Quốc bắt đầu đánh giá và lựa chọn địa điểm cho nhà máy ĐHN đầu tiên. Năm 1968, kế hoạch phát triển ĐHN dài hạn trong 20 năm tiếp theo được xây dựng dựa trên những nỗ lực trong khoảng 8 năm như: khảo sát, lên kế hoạch, đánh giá và phản hồi về những kế hoạch quốc gia, đánh giá về lựa chọn công nghệ, khảo sát các xu hướng quốc tế, khảo sát địa điểm, phát triển nguồn nhân lực và hệ thống pháp quy. Năm 1971, nhà máy ĐHN đầu tiên được khởi công xây dựng theo hợp đồng chìa khoá trao tay và bắt đầu hoạt động thương mại 7 năm sau đó. Với thành công trong việc phát triển công nghiệp hoá chất và công nghiệp nặng như một phần của kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân, Hàn Quốc đã ký hợp đồng xây dựng nhà máy ĐHN thứ 4 theo phương thức không trao tay với nhà thầu chính nước ngoài và 1 nhà thầu phụ trong nước. Từ 1978 đến 1980, Hàn Quốc đã đặt hàng 6 tổ máy PWR.
Năm 1981, Trung tâm An toàn hạt nhân được thành lập thuộc Viện Nghiên cứu năng lượng nguyên tử Hàn Quốc. Năm 1989, Hàn Quốc đã tiến hành xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên dựa trên nền tảng công nghệ và kinh nghiệm quản lý và khoa học trong nước. Nhà máy ĐHN đầu tiên của Hàn Quốc sử dụng công nghệ OPR 1.000 (Nhà máy ĐHN tiêu chuẩn Hàn Quốc) được chạy thử nghiệm năm 1995. Hiện nay, Hàn Quốc đang nổi lên như một trong những quốc gia nắm giữ công nghệ ĐHN lớn của thế giới. Thành công trong việc phát triển ĐHN của Hàn Quốc dựa vào các yếu tố:
Thứ nhất là sự cam kết của Chính phủ về việc phát triển ĐHN vì mục đích hoà bình. Việc thi hành một chương trình ĐHN quốc gia đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ của các tổ chức trong nước và quốc tế. Chính phủ Hàn Quốc đã xác định việc triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ để phát triển ĐHN là một trong những ưu tiên cao nhất trong chương trình phát triển quốc gia (cùng với sản xuất thép, hoá dầu và đóng tàu). Chính phủ Hàn Quốc đưa ra và duy trì chương trình ĐHN quốc gia với quyết tâm mạnh mẽ và đồng thuận tức thời cùng những kế hoạch dài hạn.
Thứ 2, Hàn Quốc biết kết hợp vốn kiến thức và kinh nghiệm của các quốc gia có nền công nghiệp ĐHN phát triển với việc đảm bảo nguồn nhân lực trong nước có khả năng thực hiện thành công chương trình ĐHN. Để có được nguồn nhân lực cho ĐHN, Chính phủ Hàn Quốc đã đảm bảo vị trí và mức lương hấp dẫn cho những nhân sự có trình độ cao trong lĩnh vực ĐHN. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo trong nước, những chuyên gia nước ngoài đã được Chính phủ Hàn Quốc mời đến tham gia giảng dạy, đồng thời cử các nhà khoa học trong nước đi đào tạo ở những quốc gia có nền công nghệ ĐHN phát triển trên thế giới.
Thứ 3, Hàn Quốc đầu tư liên tục cho phát triển cơ sở hạ tầng ĐHN dưới sự chỉ đạo của chính phủ. Nhận thức rõ vai trò lãnh đạo của Chính phủ trong chương trình ĐHN, ngay từ giai đoạn đầu với sự đầu tư lớn về tài chính, nhân lực và thời gian, Hàn Quốc đã thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ với những ưu tiên đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng ở mức cao, mặc dù chương trình ĐHN cần số vốn nhiều hơn rất nhiều so với nguồn dự trữ. Chính phủ Hàn Quốc đảm bảo cho khoản vay và đưa ra một cam kết mạnh mẽ cho ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Với đảm bảo chắc chắn của Chính phủ, các công ty trong và ngoài nước có thể tin tưởng và tích cực tham gia vào chương trình ĐHN quốc gia. Giảm thiểu rủi ro và tính bất ổn về tài chính là những mục tiêu chính của cơ chế quản lý nhà nước để thúc đẩy và đảm bảo sự thành công của chương trình ĐHN của Hàn Quốc.
Thứ 4 là việc chủ động xây dựng hệ thống kiểm soát an toàn hạt nhân. Chính phủ Hàn Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải sớm xây dựng một khuôn khổ pháp quy về an toàn hạt nhân. Các kinh nghiệm trong việc xây dựng khuôn khổ pháp quy về an toàn ĐHN của các nước có nền công nghiệp ĐHN phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga... đã được Chính phủ Hàn Quốc nghiên cứu tham khảo và vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo vào thực tiễn trong nước. Do vậy, hệ thống pháp quy về việc đảm bảo an toàn ĐHN được Chính phủ Hàn Quốc tổ chức hợp lý và độc lập.
Thứ 5, Hàn Quốc có sự phối hợp giữa chương trình ĐHN và chương trình phát triển quốc gia. Chương trình ĐHN luôn là một phần trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia của Hàn Quốc. Hàn Quốc thành công xây dựng nhà máy điện đầu tiên là nhờ có sự phối hợp chặt chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia và kế hoạch phát triển công nghiệp nặng - hóa chất.
Thứ 6 là có chiến lược nhằm đảm bảo nguồn nhân lực và hệ thống đào tạo hạt nhân quốc gia. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Hàn Quốc bao gồm đảm bảo nhân lực ban đầu chất lượng cao, hỗ trợ việc đi học ở nước ngoài trong việc hợp tác với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, Hoa Kỳ, và chuẩn bị chương trình giáo dục và đào tạo trong nước cho tương lai. Để xây dựng chương trình phát triển nguồn nhân lực dài hạn, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập các khoa công nghệ hạt nhân (Nuclear Engineering) ở các trường Đại học ngay trong giai đoạn đầu. Năm 1971, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập Viện Khoa học và Công nghệ tiên tiến Hàn Quốc (KIST) nhằm đào tạo các nhà khoa học và kỹ sư phục vụ nền công nghệ đang phát triển rất mạnh mẽ ở Hàn Quốc vào những năm 1960-1970. Chính phủ Hàn Quốc đã cung cấp tài chính, khuyến khích các chương trình nghiên cứu - triển khai về hạt nhân ở các trường đại học, thu hút toàn bộ giới học thuật vào chương trình phát triển nguồn nhân lực hạt nhân quốc gia.
Thứ 7 là có kế hoạch tuyên truyền về lợi ích của ĐHN và lựa chọn địa điểm cất giữ chất thải phóng xạ. Phần lớn các quốc gia phải mất 20 năm đề có được sự ủng hộ của công chúng cho các điểm cất giữ chất thải phóng xạ ở mức thấp và mức trung bình. Trong khi đó, ngay khi đề xuất kế hoạch xây dựng nhà máy ĐHN, Chính phủ Hàn Quốc đã triển khai ngay việc tìm kiếm địa điểm chôn cất chất thải phóng xạ.
Thứ 8 là hợp tác quốc tế tích cực và sự thận trọng với các xu hướng toàn cầu, kết hợp với việc tiếp thu ý kiến phản hồi, đánh giá của các chuyên gia trong nước và quốc tế. Hàn Quốc đã tham gia tích cực vào các chương trình hợp tác quốc tế nhằm xây dựng năng lực kỹ thuật và nhận được hỗ trợ về nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong quá trình phát triển ĐHN, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập các đoàn nghiên cứu đặc biệt gồm những thành viên đến từ nhiều tổ chức khác nhau đến thăm các cơ quan chủ chốt tại các quốc gia phát triển để thu thập thông tin và nghiên cứu chính sách của họ trong việc phát triển các nhà máy. Ngoài ra, Hàn Quốc còn thuê một công ty tư vấn nước ngoài để có được sự đảm bảo về mặt kỹ thuật trong việc đưa ra những quyết định quan trọng. Bằng cách đó, Hàn Quốc đã nhận được các ý kiến phản hồi và đánh giá liên tục từ các chuyên gia trong nước và quốc tế, làm cơ sở cho việc phê chuẩn kế hoạch dài hạn cho 20 năm từ 1968 tới 1989 bao gồm 5 kế hoạch chi tiết nối tiếp nhau trong các lĩnh vực nội địa hóa lò phản ứng hạt nhân, phát triển nhiên liệu và các vật liệu cấu trúc, đảm bảo nguồn Uranium, ứng dụng bức xạ, kiểm soát và bảo vệ an toàn bức xạ, nghiên cứu cơ bản, phát triển nhân lực và công nghiệp.
Có thể thấy rằng, kinh nghiệm của Hàn Quốc để trở thành một nước tiên tiến trong lĩnh vực phát triển ĐHN là những bài học quý báu và có giá trị thực tiễn sâu sắc đối với những quốc gia đang bắt đầu khởi động chương trình phát triển ĐHN. |