|
|||
Đó là một số kết quả nổi bật của tỉnh Nam Định giai đoạn 2011 – 2015. Thông tin được đưa ra tại buổi làm việc giữa đoàn công tác của Bộ KH&CN do Bộ trưởng Nguyễn Quân làm trưởng đoàn với tỉnh Nam Định vừa qua. Mặc dù đã có nhiều kết quả đáng khích lệ, nhưng theo Bộ trưởng Nguyễn Quân, thời gian tới tỉnh Nam Định nên lựa chọn nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào các sản phẩm chủ lực, có hàm lượng giá trị gia tăng cao, có tiềm năng xuất khẩu lớn, năng suất, chất lượng cao để sản phẩm nhanh chóng có được thương hiệu, thị trường và giá trị thương mại cao. Theo ông Đoàn Hồng Phong, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, giai đoạn 2011-2015, hoạt động KH&CN của tỉnh đã đạt nhiều kết quả trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, công nghệ thông tin, tài nguyên và môi trường, phòng chống thiên tai và các hoạt động quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng,... Theo đó, trong lĩnh vực nông nghiệp, đã hoàn thiện quy trình, ứng dụng tiến bộ KH&CN nâng cao năng suất chất lượng sản xuất lúa, lựa chọn một số giống lúa thơm, lúa chịu mặn, giống lúa lai mới của tỉnh như: D.ưu 527, Bắc ưu 128; xây dựng mô hình sản xuất giống đậu tương ngắn ngày Đ8 và Đ2101 chất lượng cao với diện tích 30 ha, năng suất 65kg/sào; tiếp nhận, xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất giống khoai tây sạch bệnh bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật và khí canh; tiếp nhận công nghệ sản xuất nhân tạo 8 loại giống thuỷ sản (ngao, tôm chân trắng, cua biển, cá chình, tu hài, hầu, cá lăng, song chấm nâu); xây dựng nhãn hiệu cho các sản phẩm thương hiệu truyền thống các như: nước mắm Giao Châu, cá bống bớp Nghĩa Hưng, các sản phẩm thuộc vường quốc gia Xuân Thủy,… Qua đó giúp nâng cao chất lượng, tăng giá trị sản phẩm, tăng quy mô sản xuất trên 50%, mở rộng thị trường. Trong công nghiệp, đã ứng dụng thành công nhiều công nghệ mới, tạo các sản phẩm thay thế nhập khẩu: Công nghệ nấu luyện thép hợp kim chất lượng cao tạo ra các sản phẩm thép hợp kim giá thành chỉ bằng 40-50% giá nhập khẩu; công nghệ ép thủy lực song động để sản xuất gạch ống xi măng cốt liệu (gạch không nung) với công suất của dây chuyền đạt 10 triệu viên/năm đạt tiêu chuẩn TCVN 6477:2011; công nghệ sản xuất muối sạch, công suất 22.000 tấn muối tinh/năm và 10.000 tấn muối sấy/năm được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại do các kỹ sư Việt Nam thiết kế, chế tạo. Công nghệ, chế tạo máy chế biến lâm sản phay mộc đa năng PĐN-5 cung cấp cho các tỉnh trên cả nước,… Đặc biệt, tỉnh đang hỗ trợ sản xuất thử lò đốt rác thải sinh hoạt LOSIHO phục vụ cư dân khu vực nông thôn. Đây là sản phẩm lò tự đốt rác bằng không khí tự nhiên (dùng năng lượng của chính rác thải để đốt rác), không cần dùng các loại nguyên liệu như điện, gas, xăng, dầu. Công suất 300 – 500kg/giờ, phù hợp xử lý rác thải sinh hoạt trong ngày tại thị trấn, xã, cộng đồng khu vực đông dân cư, góp phần tiết kiệm diện tích cho các bãi chôn lấp, đảm bảo hợp vệ sinh, tiêu chuẩn về môi trường.
Mô hình sản xuất giống, nuôi trồng và chế biến nấm hàng hóa trên quy mô diện rộng tại Nam Định. Đến nay, tỉnh đã hỗ trợ hàng trăm doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý và xây dựng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, xác lập quyền sở hữu trí tuệ. Xây dựng và duy trì việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 cho 46 cơ quan trong tỉnh. Quản lý chặt chẽ công tác đo lường, chất lượng sản phẩm hàng hóa, công tác an toàn bức xạ tại 41 cơ sở sử dụng thiết bị bức xạ và 10 cơ sở có nguồn phóng xạ, phát triển công tác sáng kiến cải tiến kỹ thuật trở thành phòng trào thi đua trong tỉnh, tổ chức thành công 03 hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn tỉnh. Ưu tiên phát triển các sản phẩm chủ lực Mặc dù đã đạt được rất nhiều kết quả, tuy nhiên với đặc thù là một tỉnh mạnh về lĩnh vực nông-lâm-thủy sản, hoạt động KH&CN của tỉnh vẫn còn hạn chế trong việc hỗ trợ để tạo ra bước đột phá trong sản xuất theo chuỗi từ khâu sản xuất giống, nuôi trồng đến bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm... Chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ cho hoạt động khoa học, đổi mới công nghệ. Chưa chủ động tư vấn đặt hàng các nhiệm vụ KH&CN để giải quyết các vấn đề trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng, thời gian qua tỉnh đã quan tâm đẩy mạnh ứng dụng hiệu quả nhiều công nghệ mới góp phần phát triển kinh tế - xã hội và có nhiều kết quả nổi bật. Tuy nhiên, thời gian tới tỉnh tiếp tục bố trí hợp lý nguồn kinh phí KH&CN được ngân sách Trung ương hỗ trợ để thực hiện tốt các nhiệm vụ KH&CN ở địa phương; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thiết bị sản xuất tạo ra những sản phẩm mang tính cạnh tranh với thị trường. Tỉnh nên lựa chọn nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào các sản phẩm chủ lực, có hàm lượng giá trị gia tăng cao, có tiềm năng xuất khẩu lớn, năng suất, chất lượng cao để sản phẩm nhanh chóng có được thương hiệu, thị trường và giá trị thương mại cao. Chủ tịch Đoàn Hồng Phong cho biết, giai đoạn 2016-2020, tỉnh tiếp tục tập trung đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nông thôn mới và quyết tâm tạo ra bước đột phá về phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh thực hiện các chương trình, dự án KH&CN phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn thông qua các chương trình hỗ trợ phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Hoạt động KH&CN của tỉnh sẽ bám sát, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho việc thực hiện tái cơ cấu và thực hiện kế hoạch, quy hoạch phát triển của từng ngành, lĩnh vực, địa phương; tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tầu thực hiện sản xuất theo chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ, thông qua áp dụng các công nghệ mới, tiên tiến trong chế biến, bảo quản nông sản thực phẩm. tiếp tục nghiên cứu nhằm nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm chủ lực, trọng điểm của tỉnh và khai thác có hiệu quả lợi thế của từng vùng, địa phương. Đẩy mạnh xây dựng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc trưng của địa phương. Đồng thời, đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thiết bị, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, mở rộng thị trường tiêu thụ. Vận hành có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO trong các cơ quan hành chính nhà nước. Quy hoạch, sắp xếp hệ thống các tổ chức KH&CN theo hướng tăng mạnh các tổ chức KH&CN ngoài công lập, nhất là tổ chức KH&CN trong doanh nghiệp. Tiếp tục phát triển mạnh doanh nghiệp KH&CN. Xây dựng được đội ngũ cán bộ KH&CN có trình độ cao, tâm huyết với KH&CN trong đó đặc biệt chú trọng đến việc phát triển đội ngũ cán bộ KH&CN trong các doanh nghiệp. Bài, ảnh: Quỳnh Chi |