Bản in
Sở hữu trí tuệ có vai trò quan trọng với phát triển kinh tế-xã hội
Sở hữu trí tuệ ngày càng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay. Những năm qua, đặc biệt năm 2011 hệ thống sở hữu trí tuệ (SHTT) của Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định và có những chuyển biến tích cực, thu được nhiều kết quả khả quan.

Nâng cao vị thế của Việt Nam

Trong lĩnh vực hội nhập, Việt Nam đã hoàn thiện một số hiệp định với các đối tác song phương và đa phương, gia nhập các điều ước quốc tế về SHTT, góp phần nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam trên bình diện quốc tế. Cụ thể, đã hoàn thiện Chương trình hành động thực hiện cam kết về SHTT trong WTO, thực hiện thành công nghĩa vụ rà soát hệ thống pháp luật về SHTT của Việt Nam tại Hội đồng Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền SHTT (TRIPS); hoàn thành các thủ tục cần thiết để gia nhập Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu; Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) với những tiêu chuẩn mới về bảo hộ SHTT cao hơn nhiều so với Hiệp định TRIPS.

Quan hệ song phương cũng tiếp tục được đẩy mạnh, trong đó nổi bật là quan hệ với Liên minh Châu Âu (EU). Tương tự như TPP, vấn đề bảo hộ SHTT hiện được khối này ưu tiên hàng đầu, được đưa thành những chương riêng trong các hiệp định hợp tác. Năm 2011 cũng là năm đánh dấu sự thành công trong quan hệ song phương với một số đối tác quan trọng như Nga, Chi-lê.

Về mặt quốc gia và vùng, Cục SHTT cũng góp phần đưa các chính sách liên quan đến lĩnh vực SHTT của Việt Nam phù hợp và hài hòa với chính sách chung phát triển SHTT của các nước trong khu vực thông qua việc đóng góp và đề xuất ý kiến tại chiến lược phát triển kinh tê, xã hội trong nước, các văn kiện hợp tác ASEAN cũng như trên các diễn đàn phát triển kinh tế khu vực.

Bảo hộ các thành quả sáng tạo khoa học công nghệ

Cục SHTT cho biết, để minh bạch hóa quản lý đại diện sở hữu công nghiệp (SHCN), Cục SHTT đã công khai danh sách cá nhân và tổ chức đủ điều kiện hoạt động kinh doanh dịch vụ đại diện SHCN trên trang điện tử của Cục, giúp các tổ chức, cá nhân có nhu cầu có thể xác thực cũng như tìm kiếm một cách nhanh nhất các đại diện SHCN phù hợp theo địa bàn kinh doanh của mình. Đến tháng 10.2011, cả nước đã có 125 tổ chức được ghi nhận đủ điều kiện hành nghề dịch vụ đại diện SHCN và 278 cá nhân được cấp Chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện SHCN.

Tính đến ngày 30.6.2011, Cục SHTT đã tiếp nhận 64.656 đơn các loại trong đó có 34.736 đơn đăng ký xác lập quyền SHCN, bao gồm 3.895 đơn sáng chế và giải pháp hữu ích, 1.684 đơn kiểu dáng công nghiệp, 27.165 đơn nhãn hiệu quốc gia, 4 đơn thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, 4 đơn chỉ dẫn địa lý và 24.472 đơn các loại khác. Cũng tính đến thời điểm này, Cục SHTT đã xử lý 50.214 đơn các loại.

Với hoạt động giám định SHCN, sau khi Viện Khoa học SHTT trở thành tổ chức giám định SHTT độc lập đầu tiên (2009), trong năm 2010, tổng số đơn yêu cầu giám định đã tăng lên 337. Số đơn yêu cầu giám định trong 10 tháng đầu năm 2011 cũng đã xấp xỉ bằng năm 2010 với 332 yêu cầu, trong đó số yêu cầu từ các tổ chức, cá nhân đạt xấp xỉ 90%.


Xử lý vi phạm sở hữu công nghiệp giấy "nhái "nhãn hiệu My Lan.

Số lượng đơn nộp vào Cục SHTT tiếp tục có chiều hướng tăng lên đã chứng tỏ nhận thức về việc bảo hộ các thành quả sáng tạo công nghệ trong xã hội được nâng cao, đồng thời khẳng định chính sách bảo hộ SHTT của Việt Nam đã tạo dựng được lòng tin từ các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất và kinh doanh tại đây.

Với công tác hỗ trợ, tư vấn thông tin, Cục SHTT cũng đã chính thức đưa Chương trình đào tạo từ xa về SHTT (trong khuôn khổ hợp tác với WIPO) vào hoạt động. Hình thức đào tạo mới này đã thu hút được sự chú ý của công chúng. Trong năm vừa qua, đã có 2 khóa được tổ chức với sự tham gia của hơn 500 học viên.

Ngoài các hoạt động tư vấn hỗ trợ thường xuyên, Cục SHTT đang tiến hành hoàn thiện các thủ tục thành lập Trung tâm Phát triển tài sản trí tuệ đặt tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc. Trung tâm này sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các tổ chức, doanh nghiệp khoa học công nghệ cũng như các trường đại học đặt tại đây, tạo cầu nối giữa khối nghiên cứu và doanh nghiệp, giúp đưa những thành quả sáng tạo có khả năng thương mại hóa cao có thể dễ dàng tiếp cận và đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Cần tăng cường hoạt động quản lý SHTT ở địa phương

Mặc dù nhiều địa phương đã coi trọng và thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về SHTT nhưng tại Hội nghị toàn quốc về quản lý SHTT nhiều ý kiến cho rằng vai trò quản lý SHTT tại nhiều địa phương còn mờ nhạt. Năng lực, kiến thức chuyên môn về SHTT của các cơ quan thực thi quyền SHTT ở các địa phương còn bất cập, tình trạng lúng túng trong việc thực hiện các chức năng của mình, trông chờ, lệ thuộc vào ý kiến của cơ quan chuyên môn ở trung ương còn phổ biến.

Theo thông tin từ Cục SHTT, chức năng quản lý SHTT ở địa phương hiện chủ yếu được ghép chung với các lĩnh vực khác như: an toàn bức xạ, thông tin, quản lý công nghệ… Đến nay, vẫn chỉ có 10 sở khoa học và công nghệ (KH&CN) có bộ phận chuyên trách quản lý về SHTT (thành lập Phòng SHTT riêng). Tuy số cán bộ phụ trách lĩnh vực SHTT có tăng nhưng tổng số người theo dõi công tác này lại giảm, từ 160 năm 2010 xuống chỉ còn 147 người năm 2011. Ngoài ra, tính từ tháng 7.2010 đến tháng 6.2011, số đơn vị, cá nhân đến Sở KH&CN các địa phương tham vấn về SHTT rất ít, chưa đến 700 lượt và chủ yếu liên quan đến tư vấn về nhãn hiệu.

Bên cạnh đó, nạn hàng giả, hàng nhái vẫn là một vấn đề bức xúc tại nhiều địa phương trong cả nước. Hầu hết các vụ xâm phạm quyền SHCN đều liên quan đến nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp. Theo số liệu thống kê không đầy đủ, tại các địa phương đã xảy ra nhiều vụ vi phạm: nhãn hiệu hơn 1.560 vụ, kiểu dáng công nghiệp 107 vụ, sáng chế/giải pháp hữu ích 4 vụ, chỉ dẫn địa lý 39 vụ.

Mặc dù số vụ bị xử lý vi phạm có xu hướng giảm so với những năm trước song đây vẫn là con số không nhỏ. Bởi vậy, các địa phương cần xây dựng những quy định quản lý, xử phạt chặt chẽ và có tính răn đe cao hơn để phù hợp với đặc thù của từng địa phương. Và nếu công tác SHTT ở địa phương được chú trọng hơn nữa, có lẽ đã không xảy ra tình trạng chỉ dẫn địa lý nông sản ở Việt Nam bị doanh nghiệp nước ngoài “lấy mất” như nước mắm Phú Quốc, Phan Thiết, càphê Buôn Ma Thuột… Tất nhiên, câu chuyện này cũng phải nhìn từ nhiều góc độ khác nhau nhưng nếu như công tác quản lý SHTT tại các địa phương được chú trọng hơn, chắc chắn sẽ giảm được đáng kể tình trạng các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam bị nước ngoài chiếm dụng.

Nhằm khắc phục những điều còn tồn tại, nhiều năm qua, Cục SHTT và các địa phương cũng đã nỗ lực tìm các giải pháp thích hợp. Song, đây vẫn là một thách thức không nhỏ với những người công tác trong lĩnh vực SHTT. Có lẽ cũng cần đặt ra mục tiêu, chiến lược cụ thể và dài hạn cho hoạt động này nhằm tăng cường sự liên kết, phối hợp giữa hoạt động SHTT ở trung ương với địa phương và các địa phương với nhau để các phát huy tốt năng lực hoạt động của mỗi đơn vị; đổi mới công tác quản lý để SHTT ngày càng phát huy tốt vai trò quan trọng của mình và có những đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội, đưa Việt Nam ngày càng hội nhập sâu với thế giới.

Nguyễn Hạnh