|
|||
Đem lại lợi ích to lớn cho địa phương Ở nước ta hiện nay, ngoài lực lượng các nhà khoa học chuyên nghiệp - những người được đào tạo bài bản, hoạt động trong các viện, trường, doanh nghiệp hoặc các tổ chức nghiên cứu có đầy đủ điều kiện bảo đảm cho hoạt động sáng tạo của mình, chúng ta còn có một lực lượng “Nhà sáng chế không chuyên - Nhà khoa học không chuyên”, họ là những người nông dân thuần túy (nhà khoa học chân đất), thợ thủ công… mà ở đó có nhiều người chỉ mới học phổ thông đủ biết đọc, biết viết. Mặc dù vậy, có rất nhiều sáng chế, sáng kiến của họ đã đem lại lợi ích vô cùng to lớn phục vụ cho chính công việc của họ, cho cộng đồng và xã hội ở các địa phương trên khắp cả nước.
Theo số liệu tổng hợp của Vụ Phát triển KH&CN địa phương, giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 cả nước có 781 sáng kiến, sáng chế được phát hiện và ghi nhận (đã đoạt giải) thông qua các cuộc thi khác nhau từ trung ương đến địa phương, như: Hội thi Sáng tạo kỹ thuật các tỉnh, thành phố; Cuộc thi Sáng tạo thanh, thiếu niên, nhi đồng toàn quốc; Giải thưởng sáng tạo KH&CN Việt Nam; Cuộc thi Sáng tạo kỹ thuật nhà nông; Gặp mặt, vinh danh nhà sáng chế không chuyên tiêu biểu ở các ngành, địa phương; Hội nghị điển hình tiên tiến; “Đại hội thi đua yêu nước ở các cấp, các ngành… Nhiều sáng chế, sáng kiến có hiệu quả, khả thi và ứng dụng ngay vào sản xuất để giải phóng sức lao động thủ công, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, điển hình như:
Ông Phạm Văn Hát (Hải Dương) với “Máy gieo hạt tự động”, máy đặt hạt chính xác theo cự ly định sẵn, thay thế phần việc của 40 người, máy hiện có bán tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước và 14 nước trên thế giới như Đức, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc…; ông Tạ Đình Huy (Hà Nội) với chiếc “Máy nông nghiệp đa năng”, máy đã tích hợp được 15 chức năng như cày, bừa, phay đất, làm cỏ vườn, tạo hàng để gieo hạt, tạo luống, tời kéo nông, lâm sản, đảo phân vi sinh, xẻ rãnh thoát nước, đào hố trồng cây, máy phát điện, kéo rơ-moóc trong nhà vườn trang trại, đào bồn cà phê, phun thuốc bảo vệ thực vật, bơm, tưới tiêu. Đến nay, cơ sở của ông Huy đã sản xuất được hơn 1.000 máy và có vị thế ở thị trường trong nước;
ông Lê Văn Thành (Bình Định) với sáng chế máy tách hạt bắp gọn nhẹ, phù hợp với địa hình vùng đồi núi, hoạt động bằng máy dầu; ông Lê Hữu Minh (Thừa Thiên - Huế) với chiếc máy ép dầu phụng - dầu mè bằng thủy lực, máy hoạt động với công suất ép 1,5 tấn lạc/ngày với giá thành rẻ, tiết kiệm nhân công; ông Nguyễn Văn Rô (Cà Mau) với máy cày siêu nhẹ, có thể nổi trên mặt nước, dễ dàng di chuyển trong vùng kênh rạch ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đã được Cục SHTT cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích; Nhà sáng chế Nguyễn Thanh Hùng (Đồng Tháp) với chiếc máy nông nghiệp chuyên tuốt hạt vừng, rau đay, rau muống hiện đang bán ở một số tỉnh, thành trong nước và xuất khẩu sang Campuchia; Nhà sáng chế Phạm Văn Hùng (Tây Ninh) với giàn máy kết hợp bốn tính năng trong một là rọc rãnh, bỏ hạt, lấp rãnh, bón phân lót và máy hoàn toàn tự động trong quá trình sử dụng, giàn máy giải quyết được khó khăn về nhân công, giảm thiểu tối đa tổn thương hạt giống, đặc biệt đáp ứng nhu cầu cơ giới hoá cho những diện tích gieo trồng lớn…
Nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích hoạt động sáng kiến, sáng chế
Nhận thức được ý nghĩa, hiệu quả sáng tạo và lợi ích hiện hữu của “Nhà sáng chế không chuyên” đối với phát triển kinh tế - xã hội, Bộ KH&CN đã chủ động tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 13/2012/NĐ-CP, Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN về hướng dẫn thi hành một số quy định của Điều lệ sáng kiến. Nhiều địa phương đã ban hành một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích hoạt động sáng kiến, sáng chế phù hợp với tình hình của địa phương. Tuy nhiên, so với tiềm năng sáng tạo, khả năng nhân rộng và nhất là việc tiếp tục có những giải pháp hỗ trợ để các sáng chế, sáng kiến này hoàn thiện được quy trình công nghệ, bảo hộ được tài sản trí tuệ (bản quyền), sản xuất quy mô công nghiệp và thương mại hóa được sản phẩm ra thị trường… Những cơ chế, chính sách hiện có là chưa đủ, rất cần phải có những cơ chế, chính sách đồng bộ hơn nữa từ trung ương đến các địa phương.
Trước tiên cần có một số giải pháp, chính sách, hoạt động hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sáng chế không chuyên thương mại hóa sản phẩm, ví như: giới thiệu tham gia hội chợ, sự kiện KH&CN; hướng dẫn thủ tục, đăng ký bảo hộ sáng chế; tôn vinh trên phương tiện truyền thông bằng nhiều hình thức khác nhau. Về lâu dài cần có cơ chế hỗ trợ, tài trợ từ ngân sách nhà nước cho các “Nhà sáng chế không chuyên” tiếp tục công tác nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ, xây dựng các mô hình nhân rộng, hợp đồng chuyển giao, góp vốn, bảo lãnh bằng chính sáng chế của mình để hợp tác sản xuất, vay vốn ngân hàng mở rộng sản xuất…
Bên cạnh đó, các cấp chính quyền có sự quan tâm đúng mức, Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách phù hợp khuyến khích được năng lực sáng tạo, lực lượng các “Nhà sáng chế không chuyên” sẽ tiếp tục có những sáng kiến, giải pháp hữu ích góp phần giải phóng mạnh mẽ sức lao động của người dân, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, đóng góp một phần rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và của đất nước.
Hiện nay, để thương mại hóa được một sản phẩm nghiên cứu khoa học vẫn còn gặp một số khó khăn nhất định. Đối với các nhà sáng chế không chuyên thì chuyện này càng khó khăn hơn. Do vậy, chúng tôi cho rằng, trước tiên các nhà sáng chế phải không ngừng hoàn thiện sản phẩm để làm sao đạt được hiệu quả sử dụng cao nhất, tiện lợi nhất và rẻ nhất có thể. Tiếp theo đó, họ có thể tìm kiếm, hợp tác với doanh nghiệp để huy động vốn, nguồn lực khác phát triển sản phẩm của mình gắn với thị trường tiêu thụ.
Đối với ngành KH&CN, các nhà sáng chế không chuyên có thể liên hệ với Sở KH&CN hoặc Bộ KH&CN để được tư vấn, hỗ trợ về thông tin, cơ chế chính sách, trình tự thủ tục để có thể tham gia các nhiệm vụ KH&CN các cấp. Ngoài ra, các nhà sáng chế cũng có thể tìm kiếm sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua hoạt động vay vốn của ngân hàng, các cơ quan quản lý nhà nước hoặc cơ quan nghiên cứu khoa học.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2205/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển TSTT đến năm 2030 với quan điểm đổi mới căn bản cách tiếp cận so với giai đoạn 2011-2020 nhằm góp phần đưa SHTT thực sự trở thành công cụ quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo đó, Chương trình giai đoạn 2021-2030 được xây dựng với mục tiêu, quy mô lớn hơn, nhiều nội dung mới hơn, bảo đảm hỗ trợ đầy đủ các nội dung từ hoạt động tạo ra TSTT, cho đến các nhiệm vụ bảo hộ SHTT, quản lý, khai thác, phát triển TSTT và tạo dựng văn hóa SHTT; thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và khuyến khích các doanh nghiệp chủ động đặt hàng, liên kết, hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học để khai thác, phát triển TSTT, rút ngắn quá trình ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh, phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
PV
|