|
|||
Theo thống kê từ Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), những năm gần đây, só lượng đơn đăng ký sáng chế của các trường đại học và viện nghiên cứu tại Việt Nam đang có xu hướng gia tăng rõ rệt. Đây là một dấu hiệu đáng mừng, phần nào thể hiện được sự cải thiện trong chất lượng của các kết quả nghiên cứu tới từ các trường đại học và viện nghiên cứu. Việc gia tăng về số lượng đơn đăng ký sáng chế của các trường đại học và viện nghiên cứu trong những năm gần đây cũng thể hiện được sự gia tăng nhận thức về các giá trị tài sản trí tuệ từ các nghiên cứu cũng sự sự phát triển trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học của các đối tượng này. Bên cạnh đó, việc đăng ký sáng chế cũng cho phép các trường đại học và viện nghiên cứu có căn xứ xác lập quyền sở hữu trí tuệ, từ đó có thể thương mại hóa kết quả nghiên cứu một cách hiệu quả, từ đó tái đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Về lý thuyết là vậy, tuy nhiên, hành trình thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của các trường đại học và viện nghiên cứu cũng không hề dễ dàng khi vẫn còn vấp phải nhiều rào cản trong quy định về sở hữu trí tuệ. Để khắc phục những nhược điểm này, Cục Sở hữu trí tuệ hiện đang hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của trường đại học, viện nghiên cứu. Cụ thể, theo chia sẻ với VietQ, bên lề Hội thảo “Giải pháp thúc đẩy hình thành doanh nghiệp khởi nghiệp từ hoạt động khai thác tài sản trí tuệ tại Trường đại học, Viện nghiên cứu” được tổ chức trong chuỗi sự kiện Techfest Việt nam 2021, ông Đinh Hữu Phí, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, cho biết, trong Dự thảo Sửa đổi, bổ sungLuật Sở hữu trí tuệ đã có những thay đổi cho phù hợp với thực tiễn. Cục trưởng cho biết, trong số bảy nhóm chính sách trong lần sửa đổi này, có một chính sách liên quan trực tiếp tới các trường đại học, viện nghiên cứu, cụ thể là chính sách “Khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách Nhà nước”. Nội dung sửa đổi để thực hiện chính sách này được thể hiện theo hai phương án. Phương án 1 là sửa đổi Điều 86, bổ sung các Điều 86a, 133a, 136a và khoản 6 Điều 139 để quy định cụ thể về việc quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước được trao cho tổ chức chủ trì một cách tự động và không bồi hoàn, đồng thời quy định bảo lưu quyền của Nhà nước trong một số trường hợp cũng như nghĩa vụ của tổ chức chủ trì. Phương án này được đưa ra nhằm mục đích: (i) tạo động lực khuyến khích các đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) đối với phần kết quả nghiên cứu có khả năng bảo hộ SHCN, và thúc đẩy thương mại hóa đối tượng quyền SHCN đó; (ii) vẫn bảo đảm được sự quản lý của Nhà nước đối với kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ được bảo hộ SHCN có sử dụng ngân sách. Quy định tương tự đã được nhiều quốc gia thực hiện nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đi đầu là Hoa Kỳ, tiếp đó là các nước như Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Phần Lan, Nga,...; các quốc gia châu Á như Ấn Độ, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Phillipines và châu lục khác như Brazil, Chile, Mexico, Argentina, Nam Phi, Úc ... cũng đã có quy định tương tự. Trong số 50 quốc gia dẫn đầu về tổng số đơn đăng ký sáng chế của công dân năm 2019, có 24 quốc gia có quy định pháp luật tương tự Luật Bayh-Dole của Hoa Kỳ. Ngay trong ASEAN, có 4 quốc gia đã có quy định tương tự. Đặc biệt, Luật Tiến bộ Khoa học Công nghệ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 2007 cũng đã quy định trao quyền đăng ký sáng chế, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Phương án 2 là giữ nguyên quy định pháp luật hiện hành. Tuy nhiên phương án này không giải quyết được những tồn tại như việc pháp luật hiện hành (Điều 86 Luật Sở hữu trí tuệ, Điều 9 Nghị định 103/2006/NĐ-CP) quy định quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra trên cơ sở Nhà nước đầu tư thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước được giao quyền chủ đầu tư có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện quyền đăng ký này. Tuy nhiên tổ chức, cơ quan nhà nước được giao quyền chủ đầu tư thực hiện quyền đăng ký và trở thành chủ văn bằng bảo hộ thì cũng không có khả năng thương mại hóa đối tượng được bảo hộ do không có chức năng cũng như khả năng kinh doanh. Trong trường hợp để tổ chức chủ trì có quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí thì các cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện việc giao quyền đăng ký kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Do tính chất phức tạp của tài sản trí tuệ, đặc biệt các quy định về định giá các đối tượng này mà hiện nay việc giao quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy việc giữ nguyên quy định hiện hành sẽ không thể giải quyết được các bất cập hiện nay do không đủ căn cứ pháp lý cho tổ chức chủ trì thực hiện đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước trong một số trường hợp; không thúc đẩy việc khai thác, thương mại hóa các đối tượng này, làm cho giá trị đầu tư của nhà nước trở nên kém hiệu quả và quan trọng nhất là không thể “cởi trói” để thúc đẩy nguồn lực đổi mới sáng tạo của cả nền kinh tế. Đồng thời, quy định này chưa tính đến đặc thù của tài sản trí tuệ cũng như kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã thành công trong việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là định hướng phát triển nền kinh tế tri thức của Việt Nam hiện nay. Trong tổng số 85 ý kiến góp ý về vấn đề này có 82 ý kiến tán thành Phương án 1, trong số đó nhiều ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể cơ chế phân chia hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và tác giả như quy định của Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Hội nghị TW 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đồng thời đề nghị mở rộng giao quyền đăng ký cho tổ chức chủ trì trong lĩnh vực giống cây trồng và một số đối tượng của quyền tác giả; sửa đổi các văn bản luật có liên quan để thống nhất với nội dung sửa đổi nêu trên của Luật Sở hữu trí tuệ. Sau khi tiếp nhận được các ý kiến của Đại biểu quốc hội, cơ quan chủ trì soạn thảo đang tích cực nghiên cứu để giải trình và tiếp thu nhằm hoàn thiện quy định theo phương án thứ nhất là phương án được đa số đại biểu quan tâm. Liên quan đến ý kiến cần có phương án cụ thể hơn về phân chia lợi ích, cơ quan chủ trì soạn thảo đang nghiên cứu để đưa ra đề xuất về phân chia lợi ích phù hợp với Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 mà vẫn bảo đảm mục tiêu của chính sách này. Bộ KH&CN đang phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn để nghiên cứu, rà soát và đánh giá thực trạng việc khai thác thương mại các kết quả của nhiệm vụ khoa học công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước là đối tượng được bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan và giống cây trồng. Cho đến nay, trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đánh giá của chúng tôi thì chúng tôi dự kiến sẽ đề xuất với Chính phủ cho phép mở rộng đối tượng áp dụng cơ chế giao quyền đăng ký đối với kết quả nghiên cứu là đối tượng được bảo hộ giống cây trồng. Ngoài ra, trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Cục cũng đang nghiên cứu để sửa lại đề xuất liên quan đến vấn đề kiểm soát việc chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng được giao quyền theo hướng đơn giản hóa yêu cầu để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc thúc đẩy thương mại hóa các đối tượng này. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đang rà soát thêm để đề xuất sửa đổi các quy định của các luật liên quan văn bản quy phạm pháp luật liên quan, ví dụ như Luật KH&CN... Ông Đinh Hữu Phs cho biết, trong trường hợp phương án mà cơ quan soạn thảo đề xuất được Quốc hội thông qua, chính sách mới sẽ giúp cho các trường đại học, viện nghiên cứu có thể chủ động trong thương mại hóa tài sản trí tuệ được tạo ra từ các nhiệm vụ khoa học và công nghệ do mình chủ trì thực hiện. Nhưng bên cạnh đó để tận dụng tối đa chính sách này, trước tiên là các trường đại học, viện nghiên cứu cần thiết lập một cơ chế đảm bảo quản lý hiệu quả các tài sản trí tuệ của mình, cần có các chuyên gia am hiểu cả về thị trường và pháp lý để đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ của mình được đảm bảo cả về mặt pháp lý và giá trị thương mại. Đồng thời, kết hợp sự năng động và thậm chí là mạo hiểm của các doanh nghiệp khi quyết định đương đầu với nhưng thử thách, rủi ro trong đầu tư khai thác những tài sản trí tuệ mới không phải do doanh nghiệp mình tự tạo ra. Kết hợp tốt các yếu tố trên thì chính sách này sẽ cho thấy được giá trị đích thực của nó. Chúng tôi mong muốn các đơn vị chủ trì nhiệm vụ được chủ động và linh hoạt hơn thì giá trị của các tài sản trí tuệ được tạo ra đó phải gia tăng tỷ lệ thuận, các kết quả đề tài nghiên cứu không chỉ dừng ở việc công bố hoặc thể hiện dưới dạng bài báo khoa học mà cần trở thành những sản phẩm hữu hình. Lợi nhuận từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu sẽ quay vòng vốn đầu tư lại cho hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo thì số lượng và chất lượng kết quả hoạt động khoa học công nghệ của Việt Nam sẽ có những cải thiện đáng kể. Tôi cho rằng chỉ khi thành quả khoa học lại đem lại được nguồn vốn để tái đầu tư cho khoa học và nuôi dưỡng tạo ra được thành tựu mới thì chính sách này mới được đúng như kỳ vọng. Trường đại học, viện nghiên cứu có thể chưa mạnh hoặc chưa đủ năng lực để tự khai thác, thương mại hóa thì lúc này rất cần sự góp sức của các doanh nghiệp. Bên cạnh những doanh nghiệp đã có thì việc hình thành các doanh nghiệp khởi nghiệp từ hoạt động khai thác tài sản trí tuệ tại trường đại học, viện nghiên cứu cũng là một trong những hướng đi hiệu quả. Đây cũng chính là một trong những chủ đề được Techfest năm 2021 lựa chọn để đưa vào chuỗi hội thảo chính để cùng thảo luận, đưa ra những giải pháp hiệu quả cho việc thương mại hóa tài sản trí tuệ tạo ra từ kết quả nghiên cứu trong các trường đại học, viện nghiên cứu.
|