|
|||
Từ năm 1995, xuất phát từ nhu cầu thực tế của việc sản xuất, kinh doanh thương mại trong nước cũng như xuất khẩu, theo đề nghị của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ), Thủ tướng Chính phủ đã cho phép Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) tham gia tổ chức mã số mã vạch quốc tế - EAN International và từ 2005 đổi tên thành GS1. Việt Nam đã có được mã số quốc gia 893 và Tổng cục/GS1 Việt Nam đã hướng dẫn các tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa của Việt Nam ghi mã số mã vạch lên sản phẩm hàng hóa của mình phục vụ cho việc quét và thu nhận dữ liệu tự động, tạo thuận lợi cho quá trình quản lý, kinh doanh, bán hàng, đáp ứng nhu cầu của bạn hàng trong nước và quốc tế.
Với sự nỗ lực trong công tác xúc tiến, nghiên cứu triển khai áp dụng mã số mã vạch vào đa ngành kinh tế tại Việt Nam, GS1 Việt Nam đã được GS1 thừa nhận là hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của tổ chức thành viên.
Thời gian quan Tổng cục TCĐLCL đã liên tục tăng cường năng lực, triển khai các hoạt động về mã số mã vạch đối với các sản phẩm hàng hóa. Đặc biệt là vấn đề thúc đẩy ứng dụng mã số mã vạch trong truy tìm nguồn gốc thực phẩm.
Đại diện Vụ Tiêu Chuẩn, Tổng cục TCĐLCL cho biết, mã số mã vạch giúp truy xuất nguồn gốc sản phẩm; Cung cấp dữ liệu sản phẩm cho đối tác nước ngoài thông qua các Mạng toàn cầu; Tạo thuận lợi doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử toàn cầu; Tích hợp với dữ liệu Hải quan, Thuế tạo thuận lợi cho khai báo, thông quan, tính thuế; hỗ trợ kiểm soát luồng hàng xuất nhập khẩu; Đáp ứng nghĩa vụ thành viên tổ chức GS1 quốc tế.
Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Trần Văn Vinh cho biết, mã số mã vạch của sản phẩm, hàng hóa có ý nghĩa quan trọng thể hiện giá trị, tiêu chuẩn, chất lượng, đo lường của sản phẩm, khả năng quản lý, tính cạnh tranh, minh bạch của doanh nghiệp. Sử dụng mã số, mã vạch thể hiện tính hòa nhập thông qua thực hiện những quy định chung, chuẩn mực quốc tế về hàng hóa trên thị trường toàn cầu.
“Khi mã số mã vạch được hiểu là một chỉ số của thương hiệu có giá trị không thể nhầm lẫn, tranh chấp của nhà sản xuất; là trình độ, niềm tự hào của doanh nghiệp và của quốc gia thì lúc đó sẽ có tự tin vươn ra biển lớn, tham gia hội nhập thị trường toàn cầu hóa hiện nay"- Tổng cục trưởng Trần Văn Vinh nhấn mạnh.
Về vấn đề trên, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Nguyễn Nam Hải cho rằng hiện nay xuất xứ hàng hóa và việc xác định xuất xứ hàng hóa có rất nhiều quy định khác nhau và phức tạp. Do đó cần được quy định cho thống nhất và phù hợp, tránh vi phạm các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Có thể khẳng định, việc áp dụng mã số mã vạch không những giúp cho doanh nghiệp quản lý sản phẩm mà còn giúp cho các cơ quan quản lý kiểm soát được tình hình thị trường. Với người tiêu dùng, họ cần hơn nữa sự truyền thông rộng rãi về lợi ích của mã số mã vạch để nhận diện được đúng sản phẩm thật, vừa giúp các doanh nghiệp có giải pháp phòng chống hàng giả, hàng nhái vừa bảo vệ quyền lợi của chính mình.
Tổng cục TCĐLCL là cơ quan quản lý nhà nước về mã số mã vạch, thành viên chính thức đóng vai trò của GS1 Việt Nam trong tổ chức GS1 quốc tế. Cho tới nay, hệ thống các tổ chức, doanh nghiệp đã đăng ký để sử dụng mã số mã vạch với đầu số quốc gia 893 tại Tổng cục TCĐLCL là trên 21.000 tổ chức.
Trong giai đoạn tới, cùng với xu thế ứng dụng mã số mã vạch đang được triển khai rộng rãi trên thế giới, Tổng cục TCĐLCL sẽ tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về chất lượng sản phẩm hàng hóa áp dụng công nghệ mã số mã vạch, phối hợp với các cơ quan, tổ chức và đơn vị liên quan để đẩy mạnh việc ứng dụng các tiêu chuẩn về mã số mã vạch trong nhiều lĩnh vực như dịch vụ y tế, dịch vụ logistic, an toàn thực phẩm, dịch vụ quản lý thông tin tư liệu… |