Bản in
Cuba: Phát triển Biotech trước tiên vì sức khoẻ cộng đồng
Trung tâm Công nghệ Sinh học TP.HCM đang tổ chức một lớp học về kháng thể đơn dòng do các chuyên gia đầu ngành từ Viện nghiên cứu Cuba qua đảm trách. Nhân dịp này, Tiến sỹ Nguyễn Đức Thái, Bộ phận Công nghệ sinh học, Khu công nghệ cao TP.HCM đã có bài chia sẻ về về sự phát triển công nghệ sinh học (Biotech) của Cuba.

Cuba là quốc gia ứng dụng thành công hàng đầu Biotech cho việc chữa trị và bảo vệ sức khỏe của người dân. Ngay từ thời điểm khai sinh của công nghệ này ở những năm 1970, các nhà lãnh đạo nước này đã nhận thấy giá trị khoa học và kinh tế của Biotech. Họ đã gửi một số chuyên viên đi học các kỹ thuật biotech ở nước ngoài và.tiến hành xây dựng một số trung tâm nghiên cứu Biotech tân tiến ở trong nước. 

Chỉ trong một thời gian ngắn ở những năm 1980, các nhà nghiên cứu Cuba đã sản xuất interferon (một nhóm các protein tự nhiên được sản xuất bởi các tế bào của hệ miễn dịch ở hầu hết các động vật nhằm chống lại các tác nhân ngoại lai như virus, vi khuẩn, kí sinh trùng và tế bào ung thư) để đáp ứng nhu cầu trị liệu cho bệnh nhiễm siêu vi Dangue.

 

Hiện tại, interferon được sử dụng ở Cuba để trị các bệnh hiểm nghèo như ung thư gan và được xuất khẩu với trị giá hàng tỷ Mỹ kim mỗi năm. Khách hàng của họ là những nước Nam Mỹ và Đông Âu. Từ thành công của interferon đã có rất nhiều sản phẩm cytokine và proteins trị liệu được chế tạo với công nghệ tại tổ hợp gen; mới đây nhất là Heberprot-P dược phẩm chữa loét bàn chân của các bệnh nhân tiểu đường hiệu quả nhất hiện nay trên thế giới.

      

Các chuyên gia Biotech Việt Nam và Cuba tại Khu CNC TP.HCM (Khu CNC HCM)

Ứng dụng thành công lớn của Biotech ở Cuba là chế tạo các vắc xin chữa trị cho rất nhiều bệnh. Thành quả trên có được do sự phối hợp của các cơ sở đầu ngành như Trung tâm nghiên cứu gen và công nghệ sinh học (CIGB), Viện Nhiệt đới Pedro Khury, Trung tâm miễn dịch học phân tử và Viện Finlay ở Thủ đô Havana.

 

Ước tính hiện CuBa có khoảng 300 đơn vị nghiên cứu với hàng chục ngàn chuyên gia ở các trung tâm này cùng những trang thiết bị hiện đại ngang hàng ở các nước tiên tiến. Hoạt động của các cơ sở này bao gồm mọi tiến trình nghiên cứu đến thử nghiệm chức năng trên động vật, đánh giá lâm sàng của các vắc-xin và đưa vào quy trình sản xuất.

 

Theo thống kê, số trẻ sơ sinh tử vong ở Cuba thấp hơn so với những nước tiên tiến nhờ hiệu năng cao của các vắc-xin và chương trình chủng ngừa hữu hiệu. Hiện các đề tài vắc–xin về AIDS, bệnh sốt rét cũng được nghiên cứu chuyên sâu và mang tính cạnh tranh cao từ những ứng dụng của các ngành tân sinh học genomic, proteonomic, bioinformatics, biomarker…

 

Các trung tâm nói trên còn có những chương trình khảo cứu để phát triển các sản phẩm sinh học trị liệu cho các bệnh hiểm nghèo như ung thư, tự nhiễm và tiểu đường. Cuba bắt đầu xây dựng công nghệ kháng thể đơn dòng (MAb) rất sớm từ những năm 1980 và đến nay họ đã có trên 10 kháng thể đơn dòng (trên tổng số 24 MAb hiện được lưu hành trên thế giới).

 

Trung tâm Biocen có khả năng sản xuất vài chục tấn nguyên liệu, dung dịch dung cho các dịch vụ Biotech bao gồm việc sản xuất đại trà các vắc-xin. Một số sản phẩm sinh học của Cuba như interferon, vắc-xin được sản xuất ở nước ngoài đặc biệt là ở Trung Quốc theo hình thức tổ hợp (Partnership). Một số sản phẩm, trong đó có vắc-xin cho bệnh viêm màng óc (type B meningococcal meningitis) và gần đây là vắc-xin trị ung thư phổi dung kháng nguyên FGF được Hoa Kỳ cho thử nghiệm lâm sàng với mục tiêu sẽ dùng trị liệu ở nước này. Heberprot-P cũng đang được thử nghiệm lâm sàng ở các nước Âu Châu.

 

 

Mục đích đầu tiên cho việc phát triển Biotech của họ là phục vụ y tế cho người dân trong nước. Việc sản xuất các sản phẩm hoàn toàn do Chính phủ điều hành và kiểm soát, các sản phẩm sinh học đắt giá này được dùng miễn phí cho tất cả mọi bệnh nhân có nhu cầu.

 

Thành công lớn lao về Biotech của Cuba là một tấm gương và sự khẳng định mạnh mẽ cho việc triển khai công nghệ Biotech ở Việt Nam và các nước đang phát triển khác. Việt Nam đang có rất nhiều điều kiện thuận lợi để triển khai công nghệ Biotech trên quy mô rộng lớn; hiện có rất nhiều kỹ thuật mới và hữu hiệu hơn để ứng dụng cho nghiên cứu và sản xuất; thêm vào đó một nền kinh tế thị trường sẽ mang lại những động lực và những nguồn vốn đầu tư cần thiết.

Nguyễn Uyên ghi lại