|
|||
Việc nghiên cứu nấm ký sinh phát triển thành chế phẩm sinh học phòng trừ rầy nâu đến với tiến sĩ Lộc như một cơ duyên và may mắn. Ðó là khoảng năm 1990, khi đang học tập, nghiên cứu ở Ấn Ðộ, tình cờ chị đi ngang qua ruộng lúa cháy rầy nâu và phát hiện trên thân những con rầy nâu chết mọc nhiều nấm trắng, liền thu thập những mẫu vật này nghiên cứu. Do không phải là chuyên ngành đang theo học, nên việc nghiên cứu về nấm trắng ký sinh gặp rất nhiều khó khăn, chị phải tự mày mò nghiên cứu tài liệu, trao đổi với đồng nghiệp và thầy giáo. Quá trình nghiên cứu chị thấy, nấm trắng ký sinh có tiềm năng lớn có thể phát triển thành chế phẩm sinh học trong việc phòng trừ các loại sâu hại nói chung, rầy nâu nói riêng. Với thành công bước đầu đó, chị quyết định chuyển sang nghiên cứu về nấm trắng ký sinh và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về đề tài này. Mang kết quả về Việt Nam, với vị trí trưởng bộ môn sinh thái côn trùng và phòng trừ sinh học (Viện Lúa ÐBSCL), tiến sĩ Lộc cùng với các cộng sự đi nhiều nơi nghiên cứu về các loài nấm ký sinh có khả năng diệt côn trùng hại lúa. Hơn bảy năm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu thu thập, phân lập và định danh năm chủng nấm xanh, sáu chủng nấm trắng có hiệu lực diệt côn trùng cao. Từ đó, tiến sĩ Lộc sử dụng hai loại nấm này sản xuất thành công hai chế phẩm sinh học phòng trừ sâu bệnh hại lúa với tên thương mại là Ometar và Biovip được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa vào danh mục thuốc sinh học bảo vệ thực vật. Năm 2006, nông dân ÐBSCL đối mặt với dịch rầy nâu phá hại lúa nghiêm trọng, diện tích lúa bị cháy rầy trên diện rộng, ảnh hưởng lớn đến đời sống nông dân. Các loại thuốc hóa học phun trừ rầy nâu được sử dụng nhiều, khối lượng khá lớn nhưng chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Ðặc biệt nhiều nông dân lạm dụng thuốc hóa học, không tuân thủ nguyên tắc "bốn đúng" làm rầy nâu biến thể kháng thuốc. Trước tình hình này, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp Viện Lúa ÐBSCL thực hiện dự án sản xuất thử nghiệm "Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất hai chế phẩm trừ sâu sinh học Ometar và Biovip". Kết quả nghiên cứu và thử nghiệm đã chứng minh hai chế phẩm sinh học Ometar và Biovip có hiệu quả cao trong phòng trừ rầy nâu và bọ xít hại lúa. Hai chế phẩm này không ảnh hưởng tới các loại thiên địch có lợi trên ruộng lúa, có khả năng lây lan nhanh nên có tác dụng lâu bền trong quản lý, phòng trừ rầy nâu hại lúa. Từ đó, quy trình sản xuất hai chế phẩm sinh học hoàn thiện, thành một dây chuyền sản xuất mới hoàn hảo với chất lượng cao, khối lượng lớn, giúp nông dân phòng trừ rầy nâu hiệu quả, tiết kiệm và an toàn. Sử dụng chế phẩm sinh học này, nông dân chỉ tốn chi phí 200 nghìn đồng/ha/lần phun (trong khi sử dụng thuốc hóa học tốn 500 nghìn đồng/ha/lần phun) lại có tác dụng diệt rầy lâu dài không gây hại môi trường, ảnh hưởng sức khỏe nông dân. Từ quy trình công nghệ này, tiến sĩ Lộc cùng các cộng sự đã sản xuất hơn 45 tấn chế phẩm sinh học trừ rầy nâu hiệu quả cho hàng nghìn ha lúa ở ÐBSCL. Ðể chế phẩm sinh học đến với đông đảo nông dân, tiến sĩ Lộc đã nghiên cứu sáng tạo ra "Quy trình sản xuất nhanh chế phẩm nấm xanh Ometar ở quy mô nông hộ", rất đơn giản, dễ thực hiện, phù hợp điều kiện của nông dân. Sản xuất chế phẩm sinh học Ometar theo quy trình này, mỗi ha lúa nông dân chỉ tốn khoảng 50 nghìn đồng, hiệu quả phòng trừ rầy nâu rất cao. Chỉ cần qua hướng dẫn đơn giản người dân đã sản xuất thành công chế phẩm sinh học Ometar tại nhà để phòng trừ rầy nâu hiệu quả cho ruộng lúa của mình. Từ năm 2008 đến nay, tiến sĩ Lộc và nhóm cộng sự đã chuyển giao quy trình sản xuất nấm xanh cho cán bộ kỹ thuật và hàng chục nghìn nông dân ở bảy tỉnh, thành phố vùng ÐBSCL và hai tỉnh Bình Thuận và Bình Ðịnh, đem lại lợi nhuận cho bà con nông dân hơn 170 tỷ đồng. Hiện, nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước đăng ký với tiến sĩ Lộc để chuyển giao kỹ thuật trong thời gian tới. Hai chế phẩm trừ sâu sinh học Ometar và Biovip cũng đã ứng dụng thành công trong phòng trừ bọ cánh cứng hại dừa ở Trà Vinh, Cần Thơ và Tiền Giang; trừ bọ trĩ hại nho ở Ninh Thuận và bọ xít hại chè ở Bảo Lộc, Lâm Ðồng. Theo đánh giá của Hội đồng Khoa học và Công nghệ quốc gia, hai chế phẩm trừ sâu sinh học Ometar và Biovip đã ứng dụng công nghệ mới để tạo ra bào tử trần chín và sử dụng bào tử này nhân nuôi trên môi trường thứ cấp (tấm, gạo) với kỹ thuật "rắc bào tử" rất đơn giản, dễ thực hiện và ít bị tạp nhiễm. Nhờ vậy, sản xuất được hai chế phẩm sinh học Ometar và Biovip ở quy mô lớn, gấp nhiều lần quy trình cũ, sản phẩm chất lượng cao, hòa tan được trong nước, rất tiện dụng cho bà con nông dân. Bước sáng tạo đột phá nhất là đề xuất "quy trình sản xuất nhanh chế phẩm nấm xanh Ometar ở quy mô nông hộ" rất đơn giản dễ áp dụng để chuyển giao cho nông dân nhằm xã hội hóa việc sản xuất chế phẩm trừ sâu sinh học, giúp phòng trừ rầy nâu hiệu quả, an toàn và bền vững. Với những đóng góp lớn cho khoa học mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, công trình "Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất hai chế phẩm trừ sâu sinh học Ometar và Biovip" của tiến sĩ Nguyễn Thị Lộc mới được trao giải nhì cuộc thi sáng tạo khoa học công nghệ toàn quốc năm 2011 và vinh dự nhận giải thưởng WIPO dành cho tác giả nữ xuất sắc của tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới năm 2011 cùng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Chia sẻ với chúng tôi về công trình khoa học của mình, tiến sĩ Lộc tâm đắc nhất là sáng tạo ra quy trình sản xuất chế phẩm sinh học ở quy mô nông hộ bằng cách "rắc bào tử nấm" (chứ không sử dụng que cấy) rất đơn giản, dễ thực hiện. Nhờ đó, lần đầu nông dân Việt Nam có thể tự sản xuất ra chế phẩm trừ sâu sinh học để diệt rầy nâu và các loại sâu hại khác, góp phần phòng trừ rầy nâu hiệu quả, an toàn, tiết kiệm... |