Bản in
Đầu tư cho KH&CN: Doanh nghiệp được nhiều lợi ích
PGS.TS Đoàn Năng- Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Tổ trưởng tổ biên tập Dự án Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi), Bộ khoa học và công nghệ (KH&CN) khẳng định, thông qua Luật KH&CN (sửa đổi) trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 (Quốc hội khóa XIII) và dự kiến thông qua vào Kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2013) sẽ tạo được nền tảng pháp lý nhằm giải quyết triệt để những bất cập, vướng mắc đang cản trở sự phát triển của KH&CN trong thời gian qua.

Phóng viên báo Đất Việt đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Đoàn Năng xung quanh vấn đề này. Dưới đây là nội dung cuộc trao đổi.

Dự thảo Luật KHCN  (sửa đổi) được đưa ra thảo luận tại kỳ  họp thứ 4 (Quốc hội khóa XIII) đang diễn ra và dự kiến thông qua vào Kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2013), vậy mục tiêu của viêc sửa đổi là gì? 

PGS.TS Đoàn Năng: Như chúng ta đã biết, Luật KH&CN năm 2000 đã đặt nền móng cho việc xây dựng hành lang pháp lý ngày càng rõ ràng và thông thoáng cho các hoạt động KH&CN. Các cơ chế, chính sách và biện pháp quy định trong các văn bản pháp luật về lĩnh vực này ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, tạo điều kiện cho hoạt động KH&CN phát triển đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế, đảm bảo quốc phòng, an ninh và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng. 

Tuy nhiên, khi Luật KH&CN năm 2000 được ban hành, nhiều vấn đề của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa được định hình rõ nét, Việt Nam chưa là thành viên của WTO, chưa hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế; nhiều vấn đề bất cập, vướng mắc trong thực tiễn đã bộc lộ. Vì vậy, sửa đổi Luật chính là để khắc phục những bất cập, hạn chế của Luật KH&CN hiện hành, tạo cơ sở pháp lý tốt nhất cho sự phát triển KH&CN, đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia; tạo cơ sở pháp lý nhằm triển khai thực hiện ba nhiệm vụ then chốt mang tính đột phá trong hoạt động KH&CN: tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý và cơ chế hoạt động KHCN; tăng cường năng lực KH&CN; đẩy mạnh ứng dụng KH&CN để giải quyết những vấn đề cốt yếu của đất nước.

-Trong Dự thảo Luật có rất nhiều vấn đề đổi mới, trong đó có nội dung thực hiện nghiên cứu ứng dụng KH&CN theo đơn đặt hàng của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp (DN)  và tổ chức cá nhân.  Xin ông cho biết tại sao vấn đề này cần được đặt ra trong thực tế nghiên cứu ứng dụng hiện nay?

Vấn đề đặt hàng thực hiện nhiệm vụ KH&CN không phải là mới mà chưa được thực hiện nhiều do cơ sở pháp lý chưa đầy đủ và rõ ràng. Vì vậy, Bộ KH&CN cũng kiến nghị đưa cơ chế đặt hàng các nhiệm vụ KH&CN vào Luật để khẳng định rõ trách nhiệm của cơ quan các cấp, các Bộ ngành, tổ chức cá nhân khi đặt ra nhiệm vụ KH&CN phải có trách nhiệm với các nhà khoa học khi đặt hàng và ngược lại. Nếu cơ chế đặt hàng đựơc triển khai thuận lợi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên, tránh trường hợp như trước đây nghiệm thu rồi để đó mà không thương mại hoá được…

Tuy nhiên không phải tất cả các nhiệm vụ đều được đặt hàng, đặc biệt trong một số lĩnh vực đặt hàng là rất khó. Ví dụ như nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn…vì vậy Luật này chỉ quy định vấn đề có tính nguyên tắc về đặt hàng thực hiện nhiệm vụ KH&CN và phải cần có sự hướng dẫn cụ thể sau khi Luật KH&CN (sửa đổi) ra đời. 

-Vậy ông có thể nói rõ  về cơ chế quản lý, xác định nhiệm vụ KH&CN (sử dụng ngân sách Nhà nước) sẽ được cụ thể trong Luật như thế nào?

Trong dự thảo Luật cũng đã quy định có sự phân cấp mạnh mẽ cho Bộ trưởng Bộ KH&CN trong việc xác định nhiệm vụ KH&CN  cụ thể 5 năm và hàng năm của nhà nước thay cho việc trước đây các nhiệm vụ này đều phải trình lên Thủ tướng Chính phủ với quy trình và thủ tục rất phức tạp và thời gian kéo quá dài. Vấn đề này đã được Chính phủ đồng ý nhằm nâng cao trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ KH&CN đối với lĩnh vực Bộ KH&CN quản lý. 

Bộ KH-CN sẽ thay mặt Nhà nước ký hợp đồng đặt hàng, các Bộ, ngành, địa phương đề xuất đặt hàng thực hiện nhiệm vụ cấp Nhà nước và có trách nhiệm tiếp  nhận kết quả và tổ chức việc ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống.

Nếu là nhiệm vụ do các Bộ, ngành, địa phương tự xác định, đặt hàng, thì sau khi đánh giá nghiệm thu xong, các Bộ, ngành, địa phương phải có trách nhiệm tổ chức việc ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống vàbáo cáo bộ KH&CN về kết quả nghiên cứu và thương mại hóa kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Như vậy sẽ giải quyết được hai việc đó là quy định thủ tục chặt chẽ và giải quyết được yêu cầu gắn trực tiếp hoạt động KH&CN với sản xuất và đời sống, tránh tình trạng nghiên cứu song bỏ đó.

Đặc biệt là việc đẩy mạnh phương thức thực hiện cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN thông qua Quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực KH&CN hoặc theo cơ chế Quỹ  nhằm bảo đảm tất cả các nhiệm vụ KH&CN sau khi được phê duyệt đều có kinh phí ngay và được quyết toán theo hợp đồng chứ không theo năm tài chính.

Đối với việc đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN cũng cần phải có quy định trong luật để nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng xác định nhiệm vụ, Hội đồng tuyển chọn, Hội đồng xét chọn, Hội đồng đánh giá nghiệm thu….

Luật KH-CN  (sửa đổi) lần này cũng cân nhắc cả đến việc sử dụng tư vấn độc lập trong việc xác định nhiệm vụ, tuyển chọn, xét chọn, đánh giá nghiệm thu cuối cùng để đảm bảo khách quan…và cùng rất nhiều quy định khác góp phần bảo đảm nâng cao hiệu quả hoạt động của các khâu này. Nếu không sử dụng ngân sách Nhà nước mà các tổ chức cá nhân tự bỏ tiền ra thì họ sẽ tự xác định nhiệm vụ mà không cần tuân theo các quy trình, tủ tục như đối với sử dụng ngân sách Nhà nước.

 


-Nếu Luật KH&CN (sửa đổi) trình Quốc hội được thông qua, ông có thể cho biết sự đầu tư của Nhà nước sẽ như thế nào?DN tham gia hoạt động KH&CN sẽ được lợi gì?

-Chắc chắn là sự đầu tư của nhà nước vẫn giữ mức tối thiểu 2% tổng chi ngân sách hàng năm và cũng có thể nâng lên tùy theo yêu cầu phát triển của KH&CN.
Sau khi Luật KH&CN (sửa đổi) được ban hành, các DN được rất nhiều cái lợi. Cái được quan trọng nhất là cơ chế chính sách thông thoáng để đầu tư cho hoạt động KH&CN, để đổi mới, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Thứ 2 là Nhà nước tạo điều kiện và hỗ trợ kinh phí, dành cho DN các ưu đãi về thuế, đất đai khi DN đầu tư cho KH&CN, đặc biệt khi tổ chức KH&CN liên kết với DN trong việc giải quyết các vấn đề về đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. 

Dự thảo Luật KH&CN (sửa đổi) đã bổ sung quy định DN được trích một phần lợi nhuận trước thuế để đầu tư phát triển KH&CN, để lập quỹ phát triển KH&CN nhằm đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa. Tất nhiên cần quy định tỷ lệ trích lợi nhuận trước thuế của DN để đầu tư phát triển hoạt động KH-CN. Đồng thời, dự thảo luật cũng bổ sung quy định về trường hợp DN đầu tư, liên kết với các tổ chức KH-CN để đầu tư nghiên cứu những vấn đề KH&CN thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa được các quỹ trong lĩnh vực KH&CN xét hỗ trợ, cho vay một phần kinh phí...

Dự thảo Luật KH&CN (sửa đổi) cũng sẽ làm rõ thêm quyền sở hữu, đại diện quyền sở hữu nhà nước, thẩm quyền quyết định giao quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với kết quả nhiệm vụ KH&CN được tạo ra bằng ngân sách cho tổ chức có đủ điều kiện thực hiện việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu đó, ưu tiên tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN nhằm thúc đẩy thương mại hóa và chuyển giao, góp vốn bằng tài sản trí tuệ vào sản xuất kinh doanh;Luật cũng quy định quyền tác giả đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; phân chia lợi nhuận khi chuyển nhượng, góp vốn bằng kết quả nghiên cứu được tạo ra từ ngân sách nhà nước. 

Dự thảo Luật cũng sẽ thể chế hóa việc tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, sử dụng và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ KH&CN bằng những quy định về chế độ đặc biệt cho các nhà khoa học được giao nhiệm vụ KH&CN quan trọng của quốc gia, nhà khoa học đầu ngành và nhà khoa học trẻ tài năng, nhà khoa học có cống hiến đặc biệt xuất sắc...

Đặc biệt Dự thảo Luật cũng quy định giải quyết những vấn đề về tín dụng cho KH-CN cũng như các cơ chế chính sách khi thực hiện các nhiệm vụ KH-CN, gắn kết các tổ chức KH-CN với DN được quy định thông thoáng và thuận lợi hơn rất nhiều.

-Vậy theo ông, làm thế nào để huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho hoạt động KH&CN?

Chắc chắn phải huy động chủ yếu ở khu vực ngoài Nhà nước (DN, tổ chức, cá nhân) đặc biệt cóp cả việc huy động từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài và tổ chức quốc tế.

Đối với các tổ chức cá nhân trong nước cần có những quy định khuyến khích, động viên (có những trường hợp phải bắt buộc) trích lập quỹ phát triển KH&CN. Đặc biệt đối với các DN nhà nước, theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 6 về KH&CN mới được ban hành, buộc phải trích 1 tỷ lệ nhất định thu nhập trước thuế để lập quỹ đầu tư cho KH&CN, tất nhiên sẽ có những quy định cụ thể cho từng loại hình DN nhà nước. 

Ngoài việc trích Quỹ, nếu đầu tư cho KH&CN mà DN liên kết với các tổ chức KH&CN có dự án cụ thể thì Nhà nước sẽ hỗ trợ kinh phí cho dự án đó. Nếu là giải quyết những dự án KH-CN của riêng DN, nhưng thuộc hướng ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước thì Nhà nước vẫn hỗ trợtới 30% và không thu hồi lại. Những DN, tổ chức cá nhân đầu tư phát triển KH&CN sẽ được ưu đãi về thuế, đất đai và các ưu đãi khác. Đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao được hưởng mức ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật hiện hành.

Đối với các DN ngoài Nhà nước phải khuyến khích,  động viên, có cơ chế tạo điều kiện để họ chi tiêu thuận lợi và có hiệu quả bởi hiện nay quy định cho phép được trích tới 10% thu nhập chịu thuế để lập quỹ phát triển KH&CN, nhưng DN không chi được vì cơ chế tài chính cho hoạt động Quỹ của DN hiện nay chưa phù hợp, sơ cứng làm cho DN không dám chi vì không thể giải ngân. Vì vây sau khi Luật ra đời cần thay đổi cơ bản cơ chế tài chính cho Quỹ phát triển KH&CN của các tổ chức cá nhân trong đó có DN.

Đối với tổ chức cá nhân nước ngoài, Luật cũng sẽ quy định như Nghị định 80 của Chỉnh phủ về hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực KH&CN, khuyến khích họ tài trợ cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam trong nghiê cứu KH&CN, khuyến khích họ thành lập tổ chức KH&CN có 100% vốn nước ngoài hoặc góp vốn cùng các tổ chức các nhân Việt Nam thành lập tổ chức KH&CN và được hưởng những ưu đãi theo quy định. Chúng ta sẽ đẩy mạnh việc cùng nghiên cứu chung và đẩy mạnh hợp tác dưới các hình thức khác mà hai bên cùng quan tâm.

-Xin cảm ơn ông
!
 
Bài và ảnh: Mai Hà