|
|||
Ông đã xuất bản 10 cuốn sách (trong đó có nhiều cuốn xuất bản bằng tiếng Nga, Pháp, Anh) và công bố hơn 70 công trình khoa học trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước. Mỗi công trình của ông là một đóng góp quan trọng cho ngành Địa chất Việt Nam nói chung và chuyên ngành Cổ sinh - Địa tầng nói riêng. Nhà địa chất đầu ngành Theo GS Tống Duy Thanh, niềm đam mê địa chất của ông được bắt nguồn và nuôi dưỡng bởi cố GS Nguyễn Văn Chiển - người thầy mà ông hết mực kính yêu. Ông từng tâm sự: “Thầy Chiển đã cho tôi thấy được những điều kỳ diệu từ những viên đá tưởng chừng vô tri vô giác. Thầy đã dạy tôi cách ‘nghe’ những hòn đá nói”. Chính vì vậy, mà vốn là sinh viên ngành Sinh học, rồi “tình cờ” theo ngành Địa chất nhưng ông đã yêu và gắn bó với ngành này lúc nào không hay. Đối với ông, niềm vui khi tìm được mẫu đá là niềm vui “khó tả” nhất, vì mỗi lần đều mang lại cho ông một cảm xúc mới mẻ và hạnh phúc. Nhiều khi ông và đồng nghiệp phải lênh đênh hàng tháng trên thuyền, trên bè, ngủ đêm trong rừng, trên các đỉnh núi… chỉ để tìm kiếm một mẫu đá. Ngay cả bây giờ, khi đã 78 tuổi, ông vẫn sẵn sàng cho những chuyến thực địa để tìm mẫu hóa thạch phục vụ công việc. Năm 1960, ông cùng một số nhà địa chất trẻ của Việt Nam được biệt phái tham gia đoàn khảo sát đo vẽ bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam dưới sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô trước đây. Ròng rã 3 năm trời, mùa đông ông tới các vùng có trầm tích Paleozoi từ Lai Châu, Sơn La đến Hoà Bình, Việt Bắc với những mặt cắt địa chất ở lưu vực sông Đà, mùa hè lại sang Liên Xô phân tích, xử lý số liệu. Những kết quả nghiên cứu trong giai đoạn này có giá trị rất lớn cho việc lập bản đồ địa chất tỷ lệ 1:500.000 (do Tổng cục Địa chất thực hiện) hoàn thành năm 1988 (năm 2005, công trình này đã được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ vì có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước). Từ năm 1966 tới nay, ông tham gia giảng dạy tại Trường Đại học Tổng hợp (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội). Ông cùng GS Nguyễn Văn Chiển đã xây dựng Chương trình đào tạo các ngành trong Khoa Địa lý - Địa chất ngay từ ngày đầu thành lập Trường. Từ năm 1992 đến 2000, ông là một trong những người tham gia xây dựng Chương trình nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên (do GS Nguyễn Văn Hiệu đề xuất và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường – nay là Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì). Chương trình này đã có tác động tích cực đối với các nhà khoa học Việt Nam trong giải quyết những vấn đề trọng yếu nhằm phát triển khoa học tự nhiên của đất nước. Ông là chủ biên và tác giả cuốn sách “Quy phạm địa tầng Việt Nam” (1994). Cuốn sách được đánh giá là “có tác dụng đóng góp tích cực trong đổi mới công tác địa chất ở Việt Nam”, được Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) và cơ quan chủ quản về địa chất cho áp dụng trên phạm vi toàn quốc thay cho những phương thức cũ mang tính bảo thủ. Ông cũng tích cực tham gia nhiều công trình khoa học, trong đó có những công trình có đóng góp lớn như: Quy phạm địa tầng Việt Nam (đề tài cấp nhà nước 44.01.04); Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội các tỉnh giáp biển miền Trung (Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước 52E); Hoàn thiện thang địa tầng Việt Nam (đề tài cấp nhà nước KT 01.05)… Kết nối địa chất Việt Nam với quốc tế Trong số các công trình nghiên cứu của mình, GS Tống Duy Thanh đặc biệt có kỷ niệm về công trình đầu tay của mình, với tên gọi “Kết quả bước đầu về nghiên cứu sinh vật địa tầng Devon của miền Bắc Việt Nam theo san hô dạng vách đáy” được ông hoàn thành năm 1963. Với sự ủng hộ của GS Tạ Quang Bửu (khi đó là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, nay là Bộ Khoa học và Công nghệ), công trình này đã được xuất bản năm 1967 bằng tiếng Pháp (dày hơn 300 trang), mô tả tới 90 loài san hô khác nhau, trong đó có 2 giống mới và 23 loài và phụ loài mới. Công trình đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trên thế giới nên mặc dù khi đó Việt Nam đang có chiến tranh nhưng nhiều nhà khoa học từ Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nhật… vẫn viết thư, gửi tài liệu trao đổi thông tin với ông. Trong thời kỳ đó có lẽ ông là người duy nhất trong ngành Địa chất của Việt Nam có sự trao đổi học thuật với phương Tây. Nhưng cũng chính vì thế mà ông có được mối quan hệ tốt với nhiều nhà khoa học của Pháp và Đức. Năm 1989, ông được Đại học Paris 6 (Pháp) mời làm cộng tác viên khoa học. Trong giai đoạn 1990-1995, ông đã đề xuất Đề án về địa chất Đông Nam Á trong Chương trình hợp tác địa chất quốc tế (IGCP) và được UNESCO xét duyệt (Đề án 306 của IGCP - Nghiên cứu địa tầng và địa chất Đông Nam Á). Việc chỉ đạo và thực hiện Đề án này, với sự ủng hộ và hợp tác chặt chẽ của Tổng cục Địa chất, đã đạt được những kết quả quan trọng trong phát triển nghiên cứu địa chất ở Việt Nam. Trước hết, lần đầu tiên giới khoa học địa chất Việt Nam có điều kiện tiếp xúc và hợp tác rộng rãi với đồng nghiệp quốc tế, nhất là với các nhà địa chất phương Tây, thay vì chỉ bó hẹp trong phạm vi hợp tác với Liên Xô trước đó. Thứ hai, và đây là điều quan trọng nhất, các nhà khoa học Việt Nam qua giao lưu quốc tế rộng rãi đã cập nhật được những thành tựu mới nhất trong khoa học địa chất quốc tế. Thứ ba, qua đề án này, các nhà địa chất Việt Nam đã phát huy được vai trò nổi trội trong cộng đồng khoa học trái đất của Đông Nam Á, được đồng nghiệp Đông Nam Á và quốc tế nể trọng. Cũng trong thời gian này (1990-1995), ông chủ trì Đề án hợp tác nghiên cứu khoa học địa chất Biển Đông với Đại học Paris 6. Lần đầu tiên một con tàu hiện đại nghiên cứu biển (tàu Atalante - 1 trong 2 con tàu ngầm hiện đại nhất thế giới lúc bấy giờ) đã đưa các nhà địa chất Pháp và Việt Nam cùng tiến hành trực tiếp nghiên cứu địa chất đáy biển Đông. Việc thực hiện đề án hợp tác Pháp - Việt này đã đạt được 2 thành công rất đáng chú ý. Về khoa học, kết quả nghiên cứu đã giúp làm sáng tỏ những vấn đề quan trọng trong sự hình thành và tiến hóa Biển Đông. Sau khi về hưu, ông vẫn tiếp tục làm việc không mệt mỏi. Ông là chủ biên cuốn sách “Địa chất cơ sở” cập nhật những tiến bộ có tính chất cách mạng trong địa chất học, nhất là trong cấu trúc, kiến tạo. Sách được sử dụng rộng rãi nên trong 6 năm đã được tái bản 3 lần (2002, 2004, 2008); tác giả giáo trình đại học “Lịch sử tiến hóa trái đất” (2008, tái bản 2009)… Đặc biệt, ông cùng các cộng sự đã hoàn thành tập chuyên khảo “Các phân vị địa tầng Việt Nam” bằng tiếng Việt và tiếng Anh (dày hơn 500 trang). Đây là một công trình khoa học lớn về địa chất Việt Nam, tổng kết và rà soát, chỉnh biên toàn bộ các phân vị địa tầng Việt Nam do các nhà địa chất Việt Nam, Pháp và các nhà địa chất khác nghiên cứu ở Việt Nam trong 150 năm qua. Nội dung cuốn sách như một cẩm nang cho tất cả những ai muốn tìm hiểu địa chất Việt Nam, vì muốn hiểu được địa chất mỗi vùng miền thì trước hết phải biết cấu trúc địa tầng của vùng miền đó. Do ý nghĩa khoa học và chất lượng cao nên cuốn sách đã được nhận Giải thưởng Bạc sách hay (2007). Bên cạnh việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học, GS Tống Duy Thanh còn tích cực tham gia nhiều công tác khác. Ông từng làm Chủ tịch Hội đồng Học hàm liên ngành Khoa học trái đất - Mỏ 2 khóa liền; Chủ nhiệm Bộ môn Địa chất; Chủ tịch Hội đồng Khoa học Trái đất của Chương trình nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên; Chủ tịch Hội Cổ sinh - Địa tầng Việt Nam; Uỷ viên Thông tấn Tiểu ban Devon của Uỷ ban Địa tầng Quốc tế; Uỷ viên Ban biên tập Tạp chí Địa chất, Tạp chí Khoa học Trái đất, Tạp chí Advances in Natural Sciences... Hơn 50 năm đứng trên bục giảng, GS Tống Duy Thanh đã vinh dự được nhận nhiều phần thưởng và danh hiệu cao quý: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì, Huân chương Lao động hạng Ba, danh hiệu Nhà giáo nhân dân… Minh Nguyệt |