|
|||
Quá trình phát triển nhận thức về vai trò, vị trí của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ hơn vai trò, vị trí của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển toàn diện đất nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã khẳng định, khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược trên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII, ngày 24-12-1996, “Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000” đã chỉ rõ, cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học - công nghệ; khoa học - công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tǎng trưởng kinh tế và củng cố an ninh quốc phòng; phát triển khoa học - công nghệ gắn liền với bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Văn kiện Đại hội X tiếp tục khẳng định, giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn kiện Đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI, “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” tiếp tục khẳng định, phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp.
Cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội (Trong ảnh: Sinh viên Trường Đại học Phenikaa (Hà Nội) thực hành sử dụng cánh tay robot) Văn kiện Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục khẳng định những nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới, đồng thời đã phát triển và nhấn mạnh rõ hơn khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu; khoa học và công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới...; lấy khoa học - công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang hoạt động trên đất nước ta. Trong nhiệm kỳ khóa XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành một số nghị quyết quan trọng(1) về phát triển kinh tế - xã hội, trong đó khẳng định vai trò, vị trí ngày càng quan trọng của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc. Thực tiễn thực hiện vai trò then chốt của khoa học và công nghệ Thể chế hóa các chủ trương của Đảng về khoa học - công nghệ, trong 10 năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều luật, cơ chế, chính sách về khoa học - công nghệ và các vấn đề liên quan. Trên thực tế, khoa học - công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển mọi mặt của đất nước. Dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ, nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển đất nước được nâng lên đáng kể; khoa học và công nghệ từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội, đã đóng góp tích cực hơn trong nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội; góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách, bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, con người Việt Nam... Tuy nhiên, trên thực tế, khoa học và công nghệ chưa thực hiện được đầy đủ và hiệu quả vai trò “thực sự là quốc sách hàng đầu”, “là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ, sự phát triển khoa học và công nghệ còn nhiều hạn chế; khoa học và công nghệ chưa trở thành nền tảng, là quốc sách, động lực then chốt cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong thực tiễn, một số chỉ tiêu lớn về khoa học và công nghệ chưa đạt mục tiêu đặt ra, như mục tiêu đến năm 2020, khoa học và công nghệ đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN. Tác động của khoa học, công nghệ đối với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế. Những hạn chế, bất cập đó được thể hiện ở một số phương diện chủ yếu sau: Thứ nhất, những chỉ số phát triển tổng hợp cho thấy nền kinh tế - xã hội vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng. Năng suất lao động và năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) của Việt Nam tuy ngày càng được cải thiện và tăng lên, song còn rất thấp và có khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực. Theo Tổng cục Thống kê, năng suất lao động của Việt Nam vẫn thuộc loại thấp nhất trong các nước ASEAN, chênh lệch về năng suất lao động giữa Việt Nam với các nước đang tiếp tục gia tăng. Tính theo sức mua tương đương năm 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD (chỉ bằng 7% năng suất lao động của Xin-ga-po, bằng 17,6% năng suất lao động của Ma-lai-xi-a, bằng 36,5% năng suất lao động của Thái Lan, bằng 42,3% năng suất lao động của In-đô-nê-xi-a; bằng 56,7% năng suất lao động của Phi-líp-pin, bằng 87,4% năng suất lao động của Lào). Năng suất các yếu tố tổng hợp TFP (phản ánh trình độ hiện đại của nền sản xuất xã hội) vẫn thuộc loại thấp và chậm được cải thiện, tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP chưa cao, bình quân giai đoạn 2011 - 2015 chỉ đạt 25,5% so với 24,48% của giai đoạn 2001 - 2005 và 23% của giai đoạn 2006 - 2010(2), trong khi đóng góp của yếu tố tăng vốn vào tăng trưởng GDP là 51,5% và yếu tố tăng lao động là 23%. Thứ hai, chỉ số ICOR (thể hiện hiệu suất đầu tư) vẫn còn cao so với các nước trong khu vực và so với các nước công nghiệp mới nổi trong cùng giai đoạn. Chỉ số ICOR giai đoạn 2011 - 2016 vẫn gần 6,0 - một con số quá cao so với chỉ số ICOR của các nước và vùng lãnh thổ Đông Á trong thời kỳ cất cánh, như Nhật Bản là 3,2 (1961 - 1970), Hàn Quốc là 3,2 (1981 - 1990), Đài Loan (Trung Quốc) là 2,7 (1981 - 1990). Điều này cho thấy vai trò của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, chưa đóng vai trò chủ chốt trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư. Thứ ba, trình độ công nghệ của nền sản xuất xã hội được nâng lên, song nhìn chung còn thấp, thậm chí lạc hậu, chậm được đổi mới(3). Theo Tổng cục Thống kê, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng công nghệ tụt hậu 2 - 3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới, trong đó 76% công nghệ nhập từ nước ngoài trong những năm 1960 - 1970; 75% thiết bị đã hết khấu hao; 50% thiết bị là tân trang. Trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp FDI chủ yếu là trình độ công nghệ trung bình, mang nặng tính gia công, lắp ráp, tỷ trọng công nghệ cao còn ít(4). Công nghệ hỗ trợ yếu và chậm phát triển. Thứ tư, chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam có bước cải thiện tích cực trong các năm gần đây, theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, năm 2019, chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tiếp tục được cải thiện lên vị trí 42/129 nền kinh tế, tăng 17 bậc so với năm 2016 song chỉ số kinh tế tri thức (KEI) - một chỉ số phản ánh đổi mới sáng tạo trực tiếp tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, lại đang còn rất hạn chế (tuy đã có sự cải thiện). Chỉ số KEI của Việt Nam năm 2019 là 3,51, trong đó chỉ số sáng tạo là 2,72, thấp hơn nhiều so với Xin-ga-po (8,44), Ma-lai-xi-a (6,07), Thái Lan (5,52). Đổi mới sáng tạo của Việt Nam còn khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực, thể hiện ở số phát minh, sáng chế được áp dụng ở Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với các nước. Thứ năm, các doanh nghiệp nội địa còn ít quan tâm đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D); tỷ lệ doanh nghiệp có R&D trong các ngành còn rất thấp (trong ngành sản xuất thiết bị điện là 17%, ngành sản xuất chế biến thực phẩm là 9%, ngành dệt là 5,0%...). Tỷ lệ chi cho R&D trên GDP của Việt Nam (bao gồm cả khu vực nhà nước và tư nhân) chỉ đạt khoảng 0,44%, thấp hơn nhiều so với trung bình của thế giới là 2,23% GDP. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học để thực hiện quá trình chuyển giao và đổi mới công nghệ còn rất hạn chế. Theo kết quả khảo sát đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp thuộc dự án FIRST-NASATI thực hiện mới đây, chỉ có gần 14% doanh nghiệp đã phối hợp với các đơn vị bên ngoài để triển khai nghiên cứu đổi mới sản phẩm; các hoạt động chuyển giao công nghệ từ các tổ chức khoa học - công nghệ đến doanh nghiệp lại rất thấp (chỉ dưới 1%). Điều này cho thấy sự liên kết giữa doanh nghiệp (bên cầu trong thị trường khoa học - công nghệ) với các viện, trường, các nhà khoa học (bên cung) vẫn còn rất hạn chế. Kết quả điều tra của Bộ Khoa học và Công nghệ năm 2018 cho thấy, chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo và khoảng 4.000 công ty khởi nghiệp sáng tạo đang hoạt động. Thứ sáu, thị trường khoa học và công nghệ hiện nay dù đã có bước phát triển nhất định song nguồn cung thị trường khoa học - công nghệ chậm phát triển (do nguồn nhân lực khoa học - công nghệ vẫn còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, thiếu kỹ năng và năng lực đổi mới sáng tạo, số nhân lực chuyên môn kỹ thuật bậc cao, bậc trung của Việt Nam còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lao động, năm 2017, tỷ trọng chuyên môn kỹ thuật bậc cao chỉ chiếm khoảng 7,2% lao động); số doanh nghiệp có đầu tư tham gia nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học - công nghệ hiện nay chỉ chiếm tỷ trọng gần 9%; số doanh nghiệp có hoạt động trực tiếp liên quan đến nghiên cứu khoa học và phát triển chỉ khoảng gần 400 doanh nghiệp (quá ít so với quy mô trên 750 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động trên các lĩnh vực hiện nay); “bên cầu” của thị trường khoa học - công nghệ còn kém phát triển (cả về quy mô, trình độ và chất lượng), chưa tạo thành sức hút mạnh để thúc đẩy “bên cung” phát triển, đổi mới sáng tạo gắn với ứng dụng vào thực tiễn.
Tham quan sản phẩm trưng bày của Trường Đại học Quốc gia Hà Nội tại Diễn đàn Nông nghiệp bền vững Việt Nam - châu Âu với chủ đề: "Nông nghiệp 4.0: Chìa khóa tiếp cận thị trường châu Âu" Những hạn chế, bất cập trên cho thấy khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa làm tốt vai trò “thực sự là quốc sách hàng đầu”; “là động lực then chốt và quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nguyên nhân chủ yếu là: 1- Các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, các tổ chức khoa học - công nghệ chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò, vị trí của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển nhanh và bền vững đất nước trong dài hạn; 2- Nước ta phát triển trong mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng trên nền tảng của thâm dụng lao động trình độ thấp, giá rẻ, thâm dụng đất đai và các tài nguyên khác, trình độ công nghệ thấp, chủ yếu là sản xuất sản phẩm thô, gia công lắp ráp trong một thời gian dài; không tạo được “bên cầu” rộng lớn (trước hết từ các doanh nghiệp) để khuyến khích, thúc đẩy phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; 3- Thể chế phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ. Thiếu cơ chế phù hợp với tính đặc thù của hoạt động trí tuệ nhằm tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; 4- Tiềm lực khoa học - công nghệ của đất nước (đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ, sở hữu trí tuệ, nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất khoa học - công nghệ) tuy đã được tăng lên song còn rất khiêm tốn. Đây cũng chính là những vấn đề trọng yếu đặt ra phải khắc phục để phát huy vai trò của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giai đoạn mới. Xác định vai trò đột phá của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới Để hiện thực hóa yêu cầu cao về vai trò của khoa học và công nghệ trong giai đoạn mới, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII khẳng định, phải đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước. Điểm mới về nhận thức trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII về vai trò của khoa học và công nghệ là không chỉ nhấn mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, mà còn đề cao yêu cầu đổi mới sáng tạo như một định hướng trung tâm của phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII cũng nêu rõ phải phát triển hệ thống sáng tạo quốc gia, hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp là trung tâm ứng dụng công nghệ và phát triển sản phẩm, các trường đại học và các viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu và phát triển; tạo cơ chế liên kết hữu cơ giữa các cơ sở nghiên cứu với các doanh nghiệp trên cơ sở chia sẻ về trách nhiệm và lợi ích tương hỗ. Nội dung dự thảo cũng cho thấy, lần đầu tiên, Đảng chính thức xác định phải xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Xây dựng môi trường hoạt động khoa học - công nghệ dân chủ, công khai, minh bạch; khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, hành chính hóa trong hoạt động khoa học - công nghệ; tạo động lực nền tảng, quan trọng nhất cho phát triển đất nước nhanh, bền vững trong giai đoạn mới. Hiện nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ta đang đứng trước bối cảnh mới. Trên thế giới, cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, an ninh, quốc phòng,... và được quy tụ thành cạnh tranh vị thế quốc gia, cạnh tranh năng lực tự chủ và phát triển của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ẩn sâu bên trong các cuộc cạnh tranh chiến lược là cạnh tranh về sở hữu trí tuệ nhân tạo, về công nghệ cao; ai sở hữu trí tuệ nhân tạo, công nghệ cao là người đó nắm được vận mệnh của sự phát triển; đối với các nước lớn đó là khả năng chi phối và “cầm chịch” các thể chế phát triển và “luật chơi” trên thế giới; đối với các nước nhỏ và đang phát triển thì đó là khả năng vươn lên, không bị tụt hậu, không bị lệ thuộc, thụ động trong quá trình phát triển. Quá trình đổi mới sáng tạo đang diễn ra mạnh mẽ ở rất nhiều nước trên thế giới với những cấp độ khác nhau, đặt ra những cơ hội lớn và những thách thức không nhỏ. Việt Nam cũng đang đứng trước cơ hội và thách thức này. Định hướng chiến lược là phải đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tăng trưởng kinh tế sẽ phải dựa chủ yếu vào năng suất các nhân tố tổng hợp, khoa học và công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động lớn đến mọi mặt, tất cả lĩnh vực của nước ta. Vì thế, cần có chiến lược và chính sách phù hợp để khai thác, tận dụng thành công những cơ hội và ứng phó hiệu quả với các khó khăn, thách thức. Chính yêu cầu này đặt đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại, nhất là công nghệ cao vào vai trò đột phá đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy đổi mới sáng tạo giữ vai trò then chốt đối với phát triển mọi mặt của xã hội, nhất là tăng trưởng kinh tế. Động lực tăng năng suất lao động quan trọng nhất chính là đổi mới sáng tạo, trọng tâm là phát triển và ứng dụng công nghệ cao. Đổi mới sáng tạo được xác định với năm trụ cột đầu vào là thể chế vĩ mô, nguồn nhân lực và nghiên cứu, kết cấu hạ tầng, thị trường và môi trường kinh doanh và hai trụ cột đầu ra là sản phẩm tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo(5). Tùy theo điều kiện cụ thể, mỗi nước có thể lựa chọn con đường và mô hình cụ thể cho mình. Sự thành công tùy thuộc vào khả năng nhận biết, nắm bắt, ứng dụng và phát triển tiến bộ công nghệ của mỗi nước. Hiện nay, các nước trong khối ASEAN cũng đã nhận thức rõ vấn đề này. Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN năm 2018 tại Hà Nội (ngày 13-9-2018) đã đưa ra thông điệp nổi bật là mỗi nước cần chủ động phát huy tinh thần doanh nghiệp, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo với tầm nhìn đa chiều, dài hạn để phát triển bền vững trong thời đại cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việc chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, sáng tạo đã trở thành động lực quan trọng nhất, với bản chất cốt lõi là sự tăng trưởng và phát triển phải là kết quả chủ yếu của tăng năng suất lao động, tăng giá trị gia tăng dựa trên nền tảng ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao. Có thể nói đây là con đường bắt buộc Việt Nam phải đi qua nếu muốn phát triển nhanh và bền vững. Việt Nam xác định đổi mới sáng tạo, phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ cao là một nội dung cốt lõi của quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, gắn với xây dựng quốc gia khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp, thúc đẩy phát triển nhanh - bền vững đất nước. Đây cũng là nhân tố cốt lõi để đất nước không rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Nếu nước ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng theo chiều rộng, dựa vào tăng vốn và lao động giá rẻ, tăng FDI, thiếu sự lựa chọn mang tính chiến lược với quá nhiều ưu đãi không phù hợp, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa chất lượng không cao, thúc đẩy tham gia vào chuỗi sản xuất - chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu ở những phân khúc công nghệ thấp, chủ yếu là gia công, lắp ráp... thì hiệu quả tăng trưởng sẽ thấp và tiếp tục suy giảm(6). Sự chênh lệch lớn về trình độ đổi mới sáng tạo, phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao trong một môi trường quốc tế có sự cạnh tranh gay gắt khiến cho sự thua thiệt và yếu thế luôn nằm về phía không làm chủ được công nghệ tiên tiến. Đây là một thách thức rất lớn đối với nước ta.
Dây truyền sản xuất ô tô tại Nhà máy ô tô Vinfast Do đó, con đường duy nhất là phải coi đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao là một đột phá chiến lược; phải hiện thực hóa nhất quán chủ trương phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; phải cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách cụ thể đối với sự phát triển của đất nước. Đặc biệt, phải hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo gồm ba cơ chế: cơ chế phát triển khoa học - công nghệ hướng vào ứng dụng (tạo cung), cơ chế phát triển kinh tế - xã hội dựa trên đổi mới sáng tạo (tạo cầu) và cơ chế liên kết phát triển khoa học và công nghệ với phát triển kinh tế - xã hội (liên kết cung - cầu); phải ưu tiên, tập trung đầu tư trước một bước cho phát triển khoa học và đổi mới công nghệ. Thực hiện trên thực tế: phát triển khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần xác định đúng và tích cực thực hiện đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao, coi đây là một đột phá chiến lược. Đặc biệt, cần đặt nhân tố con người - nguồn nhân lực chất lượng cao vào trung tâm của sự phát triển, tạo thành “tam giác vàng: Con người - Thể chế - Công nghệ”, bảo đảm đồng bộ tính khả thi về khoa học - công nghệ, về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường; để khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực nền tảng, quan trọng nhất của quá trình phát triển đất nước./. --------------------- (1) Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”; Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”; Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22-3-2018, của Bộ Chính trị, “Về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết số 02/NQ-CP, ngày 1-1-2019, của Chính phủ, “Về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021” (2) Đối với các nước phát triển, sự đóng góp của TFP vào sự tăng trưởng của GDP là rất cao, thường trên 50% và đặc biệt có những nước tới trên 90% như Nhật Bản (3) Kết quả khảo sát của VCCI năm 2016 tại 10 ngành, trong đó có 7 ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo cho thấy, có đến gần 60% doanh nghiệp đang sử dụng các công nghệ có tuổi đời trên 6 năm. Các công nghệ của các doanh nghiệp đến chủ yếu từ các nước đang phát triển (chiếm khoảng 65%). Tỷ lệ các công nghệ có xuất xứ từ các nước phát triển, như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản hay EU chỉ chiếm khoảng 32%, trong đó có trên 18% là công nghệ trước năm 2005 (4) Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp FDI: công nghệ trung bình chiếm tới 80%, công nghệ cao chỉ khoảng 6%, còn lại là công nghệ thấp; đối với Việt Nam chủ yếu là gia công và hưởng giá trị gia tăng thấp; rất ít kết nối với các thành phần kinh tế trong nước; xếp hạng các quốc gia về chuyển giao công nghệ từ FDI ở Việt Nam chỉ đạt điểm số 4,1 (thấp hơn cả Cam-pu-chia - 4,7 điểm và Phi-líp-pin - 4,5 điểm), trong khi đó Xin-ga-po là 5,9 điểm và Ma-lai-xi-a là 5,4 điểm (5) Đổi mới sáng tạo là năng lực tạo ra và ứng dụng giải pháp kỹ thuật, thành tựu công nghệ, sự linh hoạt và hiệu quả trong phản ứng chính sách và thị trường để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và phát triển doanh nghiệp. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index, gọi tắt là GII) là một bộ công cụ đánh giá xếp hạng năng lực đổi mới sáng tạo của các quốc gia, được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) phối hợp Viện INSEAD (Pháp) và Đại học Cornell (Mỹ) tính toán. Năm 2018, bộ chỉ số này gồm có 21 nhóm chỉ số và 80 tiểu chỉ số, được chia thành bảy trụ cột chính với năm trụ cột đầu vào và hai trụ cột đầu ra này (6) Tổng giá trị xuất khẩu của cả nước năm 2018 đạt khoảng 233,07 tỷ USD, trong đó khối doanh nghiệp FDI là 164,82 tỷ USD, chiếm 70,7%. Điều đáng lưu ý là xuất siêu của cả nền kinh tế là 6,89 tỷ USD, nhưng xuất siêu riêng của doanh nghiệp FDI là 29 tỷ USD, có nghĩa là các doanh nghiệp nội địa nhập siêu tới 22,11 tỷ USD. Trong giai đoạn 2011 - 2016, các doanh nghiệp FDI có lợi nhuận trước thuế cao hơn khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 181%, trong khi đó thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước của khu vực FDI chỉ bằng 81% khu vực ngoài nhà nước, nếu trừ đi thuế gián thu là phần do người dân Việt Nam nộp thì phần FDI nộp ngân sách nhà nước chỉ bằng 51% khu vực ngoài nhà nước. Điều này cho thấy phần lớn lợi nhuận của doanh nghiệp FDI được chuyển về nước họ, Như vậy, có thể thấy tăng trưởng GDP dựa vào khu vực FDI như hiện nay khiến nguồn lực của nền kinh tế suy yếu đi, tỷ lệ tổng thu nhập quốc gia GNI chiếm trong GDP hiện nay chỉ là 95%, so với 98,6% GDP của năm 2000 (Xem: Bùi Trinh: “Nghịch lý trong điểm sáng tăng trưởng”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 52, ngày 27-12-2018, tr. 14). PGS.TS. TRẦN QUỐC TOẢN
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
|