|
|||
Nỗ lực làm chủ công nghệ vaccine Với sự hỗ trợ của Bộ Y tế, Bộ KH&CN, các cơ sở nghiên cứu sản xuất vaccine trong nước đã thành công trong việc nghiên cứu triển khai và đưa vào sản xuất hàng loạt các sản phẩm là kết quả của các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước về nghiên cứu phát triển các vaccine mới, đã mang lại hiệu quả kinh tế xã hội thiết thực trong chiến lược kiểm soát và phòng chống các bệnh truyền nhiễm ở Việt Nam. Từ khi dịch COVID-19 bùng phát, một số doanh nghiệp tư nhân đã đầu tư nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine COVID-19 bằng các công nghệ khác nhau như Công ty Nanogen, Công ty VinBioCare. Hiện có 4 cơ sở nghiên cứu vaccine phòng COVID-19 và 1 cơ sở nhận chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine COVID-19 từ nước ngoài. Theo các chuyên gia và theo xu hướng chung của thế giới, thị trường vaccine tại Việt Nam được dự báo là một thị trường lớn, có tốc độ phát triển cao trong những năm tới. Do Việt Nam là một nước nhiệt đới với khí hậu nóng ẩm nên tiềm ẩn nguy cơ bùng phát các bệnh truyền nhiễm rất cao và phức tạp. Nhiều dịch bệnh cũ tái phát và xuất hiện liên tục kéo dài trong nhiều năm như sốt xuất huyết, rubella, thủy đậu, cúm mùa, cùng với các bệnh truyền nhiễm ở trẻ em như tiêu chảy do virus rota, viêm phổi do phế cầu, viêm màng não mủ do Hib còn khá cao. Vừa qua, Thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ, Bộ KH&CN đã phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng Chương trình KH&CN trọng điểm quốc gia "Nghiên cứu sản xuất vaccine sử dụng cho người đến năm 2030". Chương trình gồm 3 mục tiêu, trong đó chú trọng việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến để sản xuất vaccine có chất lượng cao phục vụ Chương trình tiêm chủng mở rộng và một số vaccine khác. Cụ thể, nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến để sản xuất vaccine sử dụng cho người; nâng cao trình độ, năng lực, khả năng sẵn sàng đối phó với dịch bệnh mới phát sinh của các tổ chức, doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất vaccine trong nước. Đồng thời, phấn đấu bảo đảm 100% vaccine trong nước đạt tiêu chuẩn tương đương với tiêu chuẩn quốc tế cho Chương trình tiêm chủng mở rộng và một số vaccine khác; từng bước đưa vaccine Việt Nam tham gia thị trường quốc tế. Đến năm 2025, làm chủ được công nghệ 25 loại vaccine và sản xuất được tối thiểu 15 loại vaccine; đến năm 2030, làm chủ được công nghệ 30 loại vaccine và sản xuất được tối thiểu 20 loại vaccine. Theo dự thảo, các tổ chức, doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine được hưởng chính sách ưu đãi như sản phẩm quốc gia, sản phẩm công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và công nghệ được khuyến khích chuyển giao. Đối với vaccine phòng chống đại dịch được hỗ trợ tối đa 100% kinh phí dành cho nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng, sản xuất thử nghiệm, mua bảo hiểm và hỗ trợ kinh phí cho người tình nguyện. Các vaccine đã được phê duyệt trong Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020 được tiếp tục xem xét hỗ trợ trong Chương trình này bảo đảm từ các nguồn: Ngân sách nhà nước cấp để thực hiện nhiệm vụ của Chương trình; Vốn của các tổ chức, doanh nghiệp tham gia thực hiện Chương trình; Tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; Nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định pháp luật. Hiện cả nước có 4 cơ sở nhà nước thực hiện việc nghiên cứu sản xuất vaccine, gồm: Viện Vaccine và Sinh phẩm y tế (IVAC), Trung tâm Nghiên cứu, Sản xuất vaccine và Sinh phẩm y tế (POLYVAC), Công ty TNHH MTV Vaccine và Sinh phẩm số 1 (VABIOTECH), Công ty TNHH MTV Vaccine Pasteur Đà Lạt (DAVAC). Tập trung đầu tư cho nghiên cứu cơ bản Từ thực tiễn nghiên cứu phát triển vaccine đại dịch, các nhà sản xuất vaccine trong nước nhận thấy, nếu chỉ đầu tư cho sản xuất thì chưa đủ và sẽ luôn bị động trước đà tiến rất nhanh của các công nghệ sản xuất vaccine hiện đại cũng như yêu cầu cấp bách và thường xuyên trong nghiên cứu vaccine phòng các bệnh do virus. Để đi nhanh hơn và chắc chắn hơn, không thể chậm trễ việc thúc đẩy hình thành hệ sinh thái cho ngành sản xuất vaccine. Vừa qua, trước nhu cầu thử nghiệm lâm sàng nhiều vaccine và thuốc cho đại dịch, đã có hai trung tâm thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1 ra đời và đó là những đơn vị "vệ tinh" ít ỏi cho ngành sản xuất vaccine, góp phần đẩy nhanh quá trình nghiên cứu. Đại diện Viện vaccine và Sinh phẩm y tế (IVAC) chia sẻ: "Quá trình nghiên cứu phát triển vaccine COVID-19 của IVAC bị ảnh hưởng về tiến độ khi nhiều thử nghiệm phải tiến hành ở nước ngoài do trong nước chưa có. Các trung tâm trong nước có đủ năng lực để triển khai các thử nghiệm tiền lâm sàng và miễn dịch học, tuy nhiên cần chuẩn hóa và được quốc tế chấp nhận. Phát triển vaccine quan trọng nhất là tạo được chủng giống và sau khi thử nghiệm trên người cũng cần xây dựng chuẩn chung để đánh giá đáp ứng về miễn dịch, kháng thể, tế bào. Đó là những cái chúng ta còn thiếu hụt, dẫn đến bị động và tốn chi phí khi phải thuê các đơn vị ở nước ngoài". TS Đỗ Tuấn Đạt, Chủ tịch Công ty TNHH MTV Vaccine và Sinh phẩm số 1 cũng cho rằng, cần hình thành các đơn vị đánh giá vaccine trên động vật, trên người hay đơn vị chuyên nghiên cứu các cách thức tiêm chủng mới, triển khai và đánh giá vaccine trên diện rộng tách biệt với đơn vị sản xuất như mô hình của các nước để tăng tính độc lập khách quan của các dữ liệu thử nghiệm và đẩy nhanh quá trình phát triển sản phẩm. Nếu tự đầu tư phát triển thì mỗi đơn vị sẽ có những hạn chế nhất định về chuyên môn hay vốn đầu tư. Trong nghiên cứu phát triển nói chung, cần đi theo xu thế thế giới là thúc đẩy hình thành các nhà nghiên cứu phát triển (R&D) tại các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học thay vì chỉ tập trung nhiệm vụ phát triển sản phẩm ở các đơn vị sản xuất như hiện nay. Từ đó, cần có vai trò của doanh nghiệp dẫn dắt hay các tổ chức như hội, hiệp hội để liên kết, tập hợp, định dạng các nhà nghiên cứu phát triển đến một sản phẩm thương mại cụ thể. Nhiều nhà khoa học cũng đồng ý quan điểm sản xuất vaccine phải đi từ nghiên cứu cơ bản, do đó cần tập trung đầu tư cho nghiên cứu cơ bản lĩnh vực này. Cùng với đó, cần thu hút đào tạo nguồn nhân lực công nghệ sinh học hướng cho nghiên cứu cơ bản, vì hiện nay rất ít sinh viên theo học. GS, TS Lê Trần Bình, Chủ tịch Hội Công nghệ sinh học Việt Nam cho rằng, với phòng thí nghiệm đạt chuẩn và nhân lực hiện nay tại Viện Công nghệ sinh học hoàn toàn có thể phát triển các chủng giống cho sản xuất vaccine. Nếu có các nhiệm vụ hợp tác cụ thể sẽ rất hiệu quả cho phát triển sản phẩm. Hiện, trong nước đã có nhóm nghiên cứu của Viện Công nghệ sinh học (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) nghiên cứu sâu về công nghệ protein tái tổ hợp - là công nghệ mới được ứng dụng trong sản xuất vaccine COVID-19. Nguồn: https://suckhoedoisong.vn |