|
|||
Tham dự hội nghị có đồng chí Chu Ngọc Anh, UV BCH Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự, Bộ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Trần Hồng Hà, Phó Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương (ĐUK); đồng chí Mạc Quang Tân, Phó trưởng Ban Tuyên giáo ĐUK; đồng chí Trần Văn Tùng, UV BCH ĐUK, Bí thư Đảng ủy, Thứ trưởng Bộ KH&CN.Tham dự hội nghị còn có các đồng chí nguyên lãnh đạo Bộ, các đồng chí trong BCH Đảng ủy Bộ KH&CN và toàn thể cán bộ đảng viên thuộc Đảng bộ Bộ, đại diện các tổ chức chính trị- xã hội thuộc Bộ. Phát biểu khai mạc tại hội nghị, đồng chí Trần Văn Tùng cho biết, thực hiện Chỉ thị số 01-CT/TW ngày 22/3/2016 của Bộ Chính trị, Hướng dẫn số 04-HD/BTGTW ngày 08/4/2016 của Ban Tuyên giáo Trung ương và Kế hoạch số 06-KH/ĐUK ngày 20/4/2016 của Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, Đảng ủy Bộ KH&CN đã xây dựng Kế hoạch số 144-KH/ĐUB ngày 20/6/2016 về tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Hội nghị triển khai với tinh thần đổi mới, thiết thực; gắn việc học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết với việc xây dựng chương trình hành động, kế hoạch hành động cụ thể, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch; xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh. Tại hội nghị, đồng chí Trần Hồng Hà, Phó Bí thư ĐUK đã giới thiệu và quán triệt những nội dung cơ bản, điểm mới và các nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong các văn kiện Đại hội XII của Đảng. Theo đó, đồng chí Trần Hồng Hà khẳng định, nội dung các văn kiện Đại hội XII của Đảng được xây dựng trên cơ sở tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới, có sự kế thừa, bổ sung, phát triển nội dung Văn kiện Đại hội XI, văn kiện các Hội nghị Trung ương trong nhiệm kỳ và đường lối, quan điểm của Đảng trong các nhiệm kỳ trước. Về phương hướng, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng đã xác định 8 nhiệm vụ chủ yếu đó là: Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị; Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận; Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ; Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; Đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Văn kiện Đại hội XII tiếp tục khẳng định, hoàn thiện quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu những kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện nước ta. Văn kiện Đại hội có nhiều điểm mới, thể hiện trình độ phát triển tư duy lý luận của Đảng ta trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh- quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Điểm nổi bật trong nội dung Văn kiện Đại hội XII của Đảng là thể hiện được những quan điểm xuyên suốt, những vấn đề cơ bản, căn cốt nhất của cách mạng Việt Nam, những nguyên tắc trong hoạt động của Đảng, đồng thời đặt ra những nhiệm vụ cụ thể, những vấn đề mới, cấp bách nảy sinh từ thực tiễn.
Trong thời gian qua KH&CN đã đạt nhiều kết quả ấn tượng (Ảnh: H.A) Cũng tại Hội nghị, đồng chí Chu Ngọc Anh đã có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng về chương trình, kế hoạch, những nội dung chính nhằm triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Đồng chí cho rằng, xuyên suốt văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng. Đặc biệt trong báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2016 – 2020) và trước đó là báo cáo đánh giá kết quả đạt được trong giai đoạn 2011- 2015 thì nội dung về KH&CN đã được nâng lên đáng kể so với văn kiện Đại hội XI, đây vừa là cơ hội, đồng thời là thách thức của toàn ngành KH&CN. Sau đó Chính phủ đã có Nghị quyết số 64/NQ-CP về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Nghị quyết có 6 nội dung cần nhấn mạnh quán triệt, thực hiện. Tuy nhiên, Bộ trưởng khẳng định, để quán triệt, thực hiện những nội dung cần sự cố gắng, vào cuộc của tất các bộ, ngành, đồng thời các đơn vị thuộc Bộ KH&CN sẽ quán triệt, đổi mới triển khai nội dung Nghị quyết Đại hội XII tại đơn vị một cách phù hợp nhất để tinh thần Nghị quyết sớm đi vào cuộc sống. Bộ trưởng nhận định, về tổng thể văn kiện của Đại hội lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết 64/QĐ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và Quyết định 1318/QĐ-BKHCN của Bộ KH&CN về việc phê duyệt Chương trình phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN chủ yếu giai đoạn 2016 – 2020 là một mạch xuyên suốt để triển khai hoạt động của ngành KH&CN trong bối cảnh thực tiễn hiện nay. Trong tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, kết quả trong giai đoạn 2011- 2015 được nhấn mạnh với khá nhiều ưu điểm nổi bật trong hoạt động KH&CN. Đó là tiềm lực KH&CN được tăng cường. Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học, công nghệ tăng bình quân 16,5%/năm, đạt khoảng 2% tổng chi ngân sách nhà nước. Đầu tư xã hội cho KH&CN tăng nhanh, ước đạt 1,3% GDP vào năm 2015. Khoa học cơ bản đã có bước phát triển. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, y tế, thông tin và truyền thông,... Các quỹ về KH&CN được thành lập, bước đầu đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả. Phát triển thị trường KH&CN, tăng cường hoạt động kết nối cung - cầu, giá trị giao dịch công nghệ tăng bình quân 13,5%/năm. Hình thành một số mô hình gắn kết hiệu quả giữa viện, trường với doanh nghiệp trong hoạt động KH&CN... Trong thời gian qua, các doanh nghiệp, tập đoàn đã quan tâm nhiều hơn về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, góp phần tăng năng suất, giảm giá thành sản phẩm, đặc biệt đã tham gia thúc đẩy các cơ chế chính sách, gần đây nhất là tháo gỡ chính sách thuế đối với doanh nghiệp công nghệ thông tin và các dịch vụ công nghệ thông tin đây là điểm nhấn trong Văn kiện Đại hội nhưng đã thể hiện chiều sâu, công sức, kết quả đáng trân trọng của ngành KH&CN. Tại Hội nghị, Bộ trưởng cũng đã thẳng thắn chỉ ra một số hạn chế như tiềm lực KH&CN chưa đáp ứng yêu cầu. Thị trường KH&CN phát triển còn chậm, nhất là việc chuyển giao công nghệ. Cơ chế quản lý KH&CN chậm được đổi mới, nhất là về tài chính, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài. Việc sử dụng ngân sách nhà nước cho KH&CN còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Năng lực đội ngũ KH&CN còn hạn chế, thiếu các nhà khoa học đầu ngành,.. Quán triệt thực hiện Nghị quyết 64/QĐ-CP của Chính phủ, Bộ trưởng chỉ rõ cần tập trung đến một số nội dung sau: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Xây dựng bộ máy của Chính phủ tinh gọp với nguyên tắc Chính phủ kiến tạo, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Trong đó, đối với Bộ và ngành KH&CN, cần tập trung quán triệt những nội dung: Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN; xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức. Nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách mang tính chất đột phá nhằm khuyến khích nghiên cứu khoa học và cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất lao động và giá trị gia tăng của sản phẩm. Bên cạnh đó, khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Đổi mới cơ chế quản lý, nhất là cơ chế tự chủ về tài chính, tổ chức và hoạt động của tổ chức KH&CN công lập. Nghiên cứu cơ chế hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao và kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu công nghệ lạc hậu, công nghệ và thiết bị máy móc đã qua sử dụng. Xây dựng chương trình, đề án đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực KH&CN. Rà soát, triển khai quy hoạch phát triển nhân lực KH&CN gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội; đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước tới năm 2020 và tầm nhìn tới năm 2030. Nghiên cứu chính sách đào tạo, phát triển, trọng dụng, tôn vinh và phát huy tự do sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học. Xây dựng tiêu chí lựa chọn một số tổ chức KH&CN đạt trình độ khu vực và thế giới. Nghiên cứu hoàn thiện thể chế định giá tài sản trí tuệ, tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và xử lý nghiêm các vi phạm. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu KH&CN quan trọng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Ban hành cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư nghiên cứu phát triển và ứng dụng KH&CN. Xây dựng một số viện nghiên cứu ứng dụng KH&CN hiện đại, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo và ươm tạo công nghệ. Thí điểm thành lập một số tổ chức KH&CN theo mô hình tiên tiến của thế giới, trước tiên là Viện KH&CN Việt Nam-Hàn Quốc. Tập trung phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN, phát triển doanh nghiệp KH&CN từ các trường đại học, viện nghiên cứu. H.A |