Tạo cơ hội cho chính mình
Không giống như các công ty công nghệ sinh học tại nhiều quốc gia công nghiệp hóa, vốn thường thất bại khi kinh phí nghiên cứu cạn kiệt, các nhóm nghiên cứu công nghệ sinh học tại Việt Nam thường tỏ ra khá bền bỉ khi vấp phải khó khăn tài chính và các trở ngại khác.
Việc thành lập Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học tại Hà Nội thời gian gần đây là một minh chứng cho thấy sự tận tâm và bền bỉ của các nhà khoa học Việt Nam. Viện ra đời từ công trình nghiên cứu của một nhóm nghiên cứu nhỏ do GS Nguyễn Lân Dũng đứng đầu. Nhóm của ông trong nhiều năm qua đã thu thập hàng ngàn vi khuẩn trong môi trường tự nhiên tại Việt Nam. Hiện nay, các nhà nghiên cứu của Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học đang áp dụng công nghệ sinh học hiện đại, gồm nhân bản gene, biểu thị gene và công nghệ lên men nhằm tìm kiếm những vi khuẩn có khả năng chữa bệnh, lập nền tảng cho việc sản xuất ra các loại thuốc mới.
Hiệp hội Sinh học phân tử châu Á – Thái Bình Dương (A - IMBN) đã kết nạp Việt Nam làm thành viên chính thức.
Global Health Sciences (GHS) thuộc Đại học California ở San Francisco (UCSF) cũng đã mời Việt Nam tham gia hợp tác cùng với một số nhóm nghiên cứu được tuyển chọn rất kỹ. Để khuyến khích và hỗ trợ việc phát triển công nghệ chuẩn đoán, Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ cho Việt Nam 3 triệu USD với sự tham gia của Đại học Y Dược TP.HCM với phần huấn luyện kỹ thuật từ Đại học UCSF Hoa Kỳ.
Cũng có nhiều dự án hợp tác quốc tế tại Việt Nam. Một nhóm nghiên cứu, đứng đầu là Giáo sư Jeremy Farrar, đã thành lập Cơ sở Nghiên cứu lâm sàng Oxford phối hợp cùng với Bệnh viện Nhiệt đới TP.HCM để tìm hiểu những căn bệnh dựa trên những nghiên cứu về các mẫu bệnh lý, các nhóm đối tượng tại các địa phương của Việt Nam. Nhóm Oxford và các cộng sự người Việt Nam đã có được những phát hiện quan trọng trong quá trình nghiên cứu của mình, đã được thể hiện trong hơn 100 bài viết các loại trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế trong gần 10 năm qua.
Khuyến khích sự cởi mở và sáng tạo
Những năm gần đây, chính phủ đã có nhiều chính sách thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp trong lĩnh vực khoa học. Chính phủ đã đưa ra các chính sách cho phép hầu hết các trung tâm nghiên cứu được hoạt động theo chương trình mà họ đặt ra, nhằm khuyến khích sự độc lập và tính sáng tạo trong khoa học.
Các khu KH - CN, kiểu như mô hình thu nhỏ của Thung lũng Silicon tại Mỹ, cũng đã mọc lên. Khu công nghệ cao TP.HCM là một ví dụ. Khu công nghệ này đã thu hút hàng tỉ USD vốn đầu tư từ Intel cùng với các hợp đồng ký với Nidec Inc., Sion Ltd. (Nhật Bản) và nhiều công ty khác trong lĩnh vực công nghệ thông tin, máy tính và tự động hóa trên toàn thế giới.
Tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội), chương trình phát triển công nghệ sinh học đã bắt đầu cho thấy sự tiến triển đáng kể trong cả nghiên cứu và sản xuất. Năm 2010, chính phủ dành ra khoản ngân sách hơn 500 triệu USD cho nghiên cứu và phát triển khoa học. Các trung tâm công nghệ sinh học đang ngày càng thu hút nhiều dòng vốn rót vào nhờ những tiến triển trong công trình nghiên cứu.
Ngoài ra, các hội nghị, hội thảo và diễn đàn hoàn toàn được tự do trao đổi ý kiến và hoan nghênh mọi sự hỗ trợ, hợp tác. Hiện nay, hoàn toàn dễ dàng tìm thấy trên sách báo, internet những bài viết phê bình về vấn đề nâng cao công tác tổ chức khoa học tại Việt Nam và yêu cầu cần có sự hỗ trợ hơn nữa trong việc nghiên cứu và phát triển.
Mặc dù sẽ mất nhiều thời gian và công sức từ cả phía chính phủ và cộng đồng khoa học mới có thể tạo ra những thay đổi tích cực theo như góp ý của các nhà phê bình, nhưng không khí thảo luận cởi mở đang là một động lực cho sự hợp tác khoa học và tính sáng tạo tại các trường đại học và trung tâm nghiên cứu tại Việt Nam.
ĐV |