
|
|||
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã xem xét, cho ý kiến về Dự thảo Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi). Sau kỳ họp thứ 4, Ủy ban thường vụ Quốc hội (TVQH) đã chỉ đạo Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN và MT) phối hợp với Ban soạn thảo và một số cơ quan có liên quan nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật trên cơ sở ý kiến của các vị Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và quán triệt tinh thần Nghị quyết số 20 – NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (BCH TW) Khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ (KH và CN) phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế (sau đây gọi là Nghị quyết 20). Tại phiên họp thứ 14 (tháng 01.2013) Ủy ban TVQH đã cho ý kiến về một số vấn đề lớn còn ý kiến khác nhau trong việc tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật, sau đó đã gửi xin ý kiến các Đoàn ĐBQH và các cơ quan hữu quan, các nhà khoa học và các chuyên gia. Tại phiên họp thứ 17 (tháng 4.2013), Ủy ban TVQH cũng đã xem xét, cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật theo ý kiến các Đoàn ĐBQH và chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Luật để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp này. Sau đây, Ủy ban TVQH xin báo cáo Quốc hội về việc tiếp thu, chỉnh lý Dự án Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi).
Nhiều ý kiến của các vị ĐBQH và ý kiến tham vấn đều cho rằng cần thiết phải cấu trúc lại để thể hiện rõ hơn phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Luật. Ủy ban TVQH cho rằng, ý kiến nêu trên là xác đáng và đã chỉ đạo rà soát, chỉnh sửa, bố cục lại Dự thảo Luật một cách mạch lạc và hợp lý hơn (sau đây gọi là Dự thảo mới), thể hiện rõ hơn vị trí, vai trò của tổ chức KH và CN, các biện pháp khuyến khích cá nhân hoạt động KH và CN; tách bạch để thể hiện rõ hơn các biện pháp bảo đảm phát triển KH và CN, đẩy mạnh việc ứng dụng kết quả nghiên cứu KH và CN vào sản xuất, kinh doanh, xúc tiến việc thành lập thị trường KH và CN; khuyến khích và huy động nguồn lực xã hội cho hoạt động KH và CN, bên cạnh đó quy định rõ ràng hơn việc quản lý kinh phí Nhà nước cho hoạt động KH và CN. Sau khi chỉnh sửa lại, Dự thảo mới gồm 83 điều, 11 chương, tăng 3 điều và 3 chương so với Dự thảo cũ. 2. Những quy định chung 2.1. Về nhiệm vụ của hoạt động KH và CN (Điều 4) Nhiều ý kiến của các vị ĐBQH cho rằng, việc tách bạch các nhiệm vụ của KH và CN riêng biệt theo từng lĩnh vực như về khoa học tự nhiên (KHTN), khoa học xã hội và nhân văn (KHXH và NV), khoa học kỹ thuật và công nghệ (KHKTvà CN) như quy định tại các Điều 6, 7 và 8 của Dự thảo cũ chưa phản ánh hết đặc điểm nhiệm vụ của KH và CN trong từng lĩnh vực. Ủy ban TVQH nhận thấy quy định của Luật KH và CN năm 2000 về nhiệm vụ của hoạt động KH và CN tại Điều 4 thể hiện ngắn gọn nhưng vẫn bao quát được tất cả các lĩnh vực KH và CN, phân định rõ nhiệm vụ với chính sách và nguyên tắc hoạt động KH và CN và phù hợp với quan điểm Nghị quyết 20. Do đó, Dự thảo mới đã kế thừa các nội dung cơ bản của Điều 4 Luật KH và CN năm 2000 và quy định khái quát về nhiệm vụ của hoạt động KH và CN trong một điều (Điều 4). 2.2. Về nguyên tắc hoạt động KH và CN (Điều 5) Đa số ý kiến các vị ĐBQH cho rằng cần thể hiện rõ hơn tính đặc thù của hoạt động KH và CN, nhấn mạnh tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của hoạt động KH và CN, hoạt động KH và CN cần gắn kết với sản xuất và kinh doanh… Tiếp thu ý kiến nêu trên, Dự thảo mới đã bổ sung, chỉnh sửa, sắp xếp lại nội dung và thứ tự các nguyên tắc, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động KH và CN, bảo đảm môi trường dân chủ và tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học, phát huy tài năng và sự sáng tạo của nhà KH và CN, nhấn mạnh hơn nguyên tắc hoạt động KH và CN phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe con người, bảo vệ môi trường (Điều 5). 2.3. Về chính sách của Nhà nước về phát triển KH và CN (Điều 6) Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH về việc thể hiện rõ hơn quan điểm phát triển KH và CN là quốc sách hàng đầu và quán triệt chủ trương của Đảng trong Nghị quyết 20, Dự thảo mới đã được chỉnh sửa, bổ sung để thể hiện rõ chính sách của Nhà nước đối với hoạt động KH và CN tại Điều 6. Trong đó đã bổ sung và nhấn mạnh chính sách huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho KH và CN, vai trò của doanh nghiệp trong đầu tư cho KH và CN và ứng dụng, đổi mới công nghệ, phát triển thị trường KH và CN, việc áp dụng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để phát triển, đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực KH và CN; hội nhập quốc tế về KH và CN, nâng cao vị thế quốc gia trong khu vực và thế giới. 3. Tổ chức khoa học và công nghệ 3.1. Về việc sắp xếp, phân loại các tổ chức KH và CN Đa số ý kiến của các vị ĐBQH đề nghị cần có quy định để phân loại, sắp xếp, quy hoạch lại hệ thống tổ chức KH và CN nhằm quản lý hiệu quả hơn hoạt động của các tổ chức KH và CN, đặc biệt là các tổ chức KH và CN công lập. Tiếp thu ý kiến xác đáng nêu trên, tại Điều 9 “Hình thức tổ chức khoa học và công nghệ” đã quy định rõ các tổ chức KH và CN được phân loại theo cấp quản lý, theo chức năng và theo hình thức sở hữu; bổ sung Điều 10 về quy hoạch mạng lưới tổ chức KH và CN; chỉnh sửa Điều 11 về điều kiện thành lập và đăng ký hoạt động của tổ chức KH và CN bao gồm cả tổ chức KH và CN có vốn nước ngoài và tổ chức KH và CN là cơ sở giáo dục đại học. Theo đó, Dự thảo mới đã quy định cụ thể cấp quản lý các tổ chức KH và CN gắn với thẩm quyền thành lập các tổ chức này của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan khác; giao Chính phủ quy định quy trình, thủ tục thành lập tổ chức KH và CN (Điều 12). 3.2. Về cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống các loại hình tổ chức KH và CN Dự thảo Luật do Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 đã bỏ quy định của Luật KH và CN năm 2000 về trường đại học là tổ chức KH và CN. Lý giải vấn đề này, Chính phủ cho rằng cơ sở giáo dục đào tạo có chức năng chủ yếu là đào tạo và trong thực tế hơn 10 năm qua các trường đại học đã không đăng ký hoạt động KH và CN theo quy định của Luật KH và CN năm 2000. Nghiên cứu KH và CN ở các cơ sở giáo dục đại học trước hết phục vụ việc nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy và chất lượng học sinh, sinh viên ra trường theo quy định của Luật Giáo dục đại học, còn tổ chức KH và CN có chức năng chính là hoạt động KH và CN. Tuy nhiên, nhiều ý kiến ĐBQH cho rằng xu hướng thế giới hiện nay là kết hợp chặt chẽ giáo dục, đào tạo với nghiên cứu - triển khai, đồng thời mô hình viện - trường là phổ biến trên thế giới, do đó, Dự thảo Luật cần phản ánh xu thế này. Ủy ban TVQH nhận thấy, ý kiến nêu trên là xác đáng, cần phải tiếp thu. Bởi vì, cơ sở giáo dục đại học được thành lập và hoạt động theo Luật Giáo dục đại học, bên cạnh chức năng đào tạo là chủ yếu, còn có chức năng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (NCKH và PTCN). Tại các trường đại học có tiềm lực mạnh về KH và CN, hoạt động NCKH và PTCN được thực hiện bởi tất cả các khoa và các giảng viên. Việc coi đại học là tổ chức KH và CN sẽ huy động được nguồn lực, cơ sở vật chất của các trường đại học vào NCKH, đồng thời cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới, là gắn kết giữa nghiên cứu với đào tạo, coi trọng hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học và xây dựng các trường đại học theo chuẩn mực quốc tế. Do đó, Dự thảo mới đã giữ lại quy định về Trường đại học là tổ chức KH và CN tại điểm b khoản 1 Điều 9. 3.3. Về đánh giá, xếp hạng các tổ chức KH và CN (Mục 2 Chương II) Một số ý kiến ĐBQH đề nghị cần có quy định nhằm đánh giá năng lực của các tổ chức KH và CN để xếp hạng, giao nhiệm vụ và tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả. Tiếp thu ý kiến xác đáng nêu trên, Dự thảo Luật đã bổ sung một mục mới gồm 3 điều về đánh giá, xếp hạng các tổ chức KH và CN (Mục 2 Chương II). Trong đó, quy định mục đích của việc đánh giá là để làm cơ sở xếp hạng các tổ chức KH và CN; phục vụ hoạt động hoạch định chính sách phát triển KH và CN, quy hoạch mạng lưới tổ chức KH và CN; làm cơ sở xem xét việc tuyển chọn, xét chọn tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH và CN và thực hiện chính sách ưu tiên đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN), cho vay, tài trợ, bảo lãnh vốn vay của các quỹ trong lĩnh vực KH và CN. Các tổ chức KH và CN công lập phải được đánh giá phục vụ quản lý nhà nước. Dự thảo mới quy định việc đánh giá tổ chức KH và CN được thực hiện dựa trên các tiêu chí và phương pháp đánh giá đối với từng loại hình tổ chức KH và CN do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành. 4. Các biện pháp phát triển nguồn nhân lực KH và CN Đa số ý kiến các vị ĐBQH cho rằng cần có các biện pháp mạnh mẽ để phát triển và thu hút nhân lực KH và CN, có các chính sách rõ ràng trọng dụng và sử dụng nhà khoa học; vinh danh và tạo điều kiện, môi trường cho các nhà khoa học làm việc, cống hiến, đặc biệt là đối với nhà khoa học đầu ngành và nhà khoa học chủ trì các nhiệm vụ KH và CN quan trọng của quốc gia, nhà khoa học trẻ tài năng. Tiếp thu các ý kiến nêu trên, để bảo đảm tính khả thi của Luật và thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Nhà nước trong việc ưu đãi, trọng dụng người tài, Dự thảo Luật đã quy định một số ưu đãi cụ thể đặc biệt, đồng thời giao Chính phủ quy định tiêu chí, trình tự, thủ tục xét công nhận các nhà khoa học được hưởng các ưu đãi này. Dự thảo mới đã bổ sung Điều 22 “Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về KH và CN” để làm rõ hơn trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài KH và CN theo quy hoạch, kế hoạch và khẳng định rõ nguồn kinh phí cho việc này; chỉnh sửa Điều 23 về sử dụng nhân lực, trọng dụng nhân tài KH và CN; chỉnh sửa Điều 24 về thu hút cá nhân hoạt động KH và CN là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài với những ưu đãi cụ thể. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật bổ sung quy định đối với nhà khoa học có đóng góp đặc biệt xuất sắc cho sự nghiệp KH và CN được phong, tặng danh hiệu vinh dự nhà nước theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng (Điều 77). Để đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ KH và CN theo chuyên môn sâu, đặc biệt là các nhà khoa học làm việc tại các tổ chức KH và CN công lập có chức năng nghiên cứu cơ bản, Dự thảo Luật bổ sung quy định trách nhiệm của tổ chức KH và CN công lập bảo đảm kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản thường xuyên theo chức năng của mình (Khoản 4 Điều 14); cá nhân hoạt động KH và CN được tạo điều kiện để tham gia và thực hiện nhiệm vụ KH và CN theo chức năng của tổ chức KH và CN mà mình là thành viên (Khoản 3 Điều 20). 5. Xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH và CN và ứng dụng kết quả NCKH và PTCN 5.1. Về xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH và CN (Chương IV) Một số ý kiến của các vị ĐBQH cho rằng, việc xác định nhiệm vụ KH và CN chưa gắn kết với yêu cầu của thực tiễn sản xuất, kinh doanh; trách nhiệm ứng dụng các kết quả KH và CN chưa được quy định rõ ràng, trách nhiệm và thành phần Hội đồng tuyển chọn, đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ KH và CN chưa cụ thể và cần phải nâng cao chất lượng của các Hội đồng này... Tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH, Dự thảo mới đã chỉnh sửa quy trình đề xuất, phê duyệt nhiệm vụ KH và CN, trong đó đề cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực trong việc đề xuất đặt hàng thực hiện nhiệm vụ KH và CN phải gắn kết với nhu cầu thực tiễn của ngành, lĩnh vực mình quản lý (Điều 26); đồng thời, quy định rõ trách nhiệm và quy trình xác định nhiệm vụ KH và CN có sử dụng NSNN, quy định gửi báo cáo về việc phê duyệt và ký kết hợp đồng thực hiện nhiệm vụ KH và CN về Bộ KH và CN để tổng hợp, đưa vào cơ sở dữ liệu quốc gia về KH và CN (Điều 27). Dự thảo mới đã chỉnh sửa quy định về đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ KH và CN (Điều 37); chỉnh sửa quy định về Hội đồng, tổ chức, chuyên gia đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ KH và CN (Điều 38). Dự thảo mới cũng đã bổ sung quy định các biện pháp gắn kết giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhà khoa học trong việc xác định và thực hiện nhiệm vụ KH và CN (Điều 32). 5.2. Về quy định đấu thầu trong thực hiện nhiệm vụ KH và CN Nhiều ý kiến ĐBQH đề nghị bổ sung hình thức đấu thầu thực hiện nhiệm vụ KH và CN để tăng tính cạnh tranh, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ KH và CN. Về vấn đề này, Ủy ban TVQH thấy rằng, hình thức tuyển chọn quy định trong Dự thảo Luật thực chất cũng là một hình thức đặc thù của đấu thầu áp dụng trong việc lựa chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ KH và CN nhằm bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng và hiệu quả. Do đó, dự thảo Luật quy định 03 phương thức thực hiện nhiệm vụ KH và CN gồm: tuyển chọn, giao trực tiếp, do các quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực KH và CN tài trợ (Điều 28). 5.3. Về khắc phục tình trạng trùng lặp trong việc xác định nhiệm vụ KH và CN Một số ý kiến của các vị ĐBQH yêu cầu cần khắc phục tình trạng thiếu thông tin về hoạt động KH và CN dẫn đến trùng lặp trong NCKH. Tiếp thu ý kiến này, Dự thảo mới bổ sung quy định công bố công khai danh mục nhiệm vụ KH và CN trên trang thông tin điện tử (Điều 26); chỉnh sửa quy định về đăng ký, lưu giữ kết quả thực hiện nhiệm vụ KH và CN (Điều 39). 5.4. Về đẩy mạnh ứng dụng kết quả NCKH và PTCN và phổ biến kiến thức KH và CN (Chương V) Tiếp thu ý kiến ĐBQH về việc cần đẩy mạnh ứng dụng kết quả NCKH và PTCN, Dự thảo mới đã chỉnh sửa, bổ sung các quy định tại Chương V về ứng dụng kết quả NCKH và PTCN và phổ biến kiến thức, truyền thông KH và CN, bổ sung Điều mới (điều 48) và tại một số điều khoản khác trong Dự thảo về phổ biến kiến thức KH và CN để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động này. Để tạo điều kiện cho việc ứng dụng kết quả NCKH và PTCN, Dự thảo mới đã chỉnh sửa lại Điều 44, trong đó quy định trách nhiệm triển khai ứng dụng kết quả NCKH và PTCN của bên đề xuất đặt hàng hoặc đặt hàng thực hiện nhiệm vụ KH và CN sử dụng NSNN. Trường hợp tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH và CN không thực hiện trách nhiệm ứng dụng kết quả NCKH và PTCN sẽ không được tham gia thực hiện nhiệm vụ KH và CN sử dụng NSNN trong thời hạn 03 năm kể từ ngày bị xử lý vi phạm. Dự thảo mới bổ sung quy định tại Điều 45 về việc khuyến khích ứng dụng kết quả NCKH và PTCN vào sản xuất, đời sống là một trong những tiêu chí chủ yếu để đánh giá năng lực của tác giả, người đứng đầu tổ chức KH và CN, doanh nghiệp; là căn cứ để Nhà nước ưu tiên khi xét tuyển chọn, giao thực hiện nhiệm vụ KH và CN sử dụng NSNN; được các quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực KH và CN xét hỗ trợ kinh phí hoạt động KH và CN. Tổ chức, cá nhân ứng dụng kết quả NCKH và PTCN và khai thác, sử dụng các sáng chế, đặc biệt công nghệ cao để đổi mới quản lý KT-XH, đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa được hưởng ưu đãi về thuế, tín dụng và các ưu đãi khác. Bên cạnh đó, Dự thảo mới cũng quy định các dự án đầu tư, chương trình phát triển KT-XH sử dụng NSNN phải lập hạng mục chi cho ứng dụng, nghiên cứu và phát triển phục vụ xây dựng căn cứ khoa học trong các giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và giải quyết các vấn đề KH và CN phát sinh trong quá trình thực hiện (Điều 46); quy định mục đích chi NSNN nhằm đẩy mạnh ứng dụng KH và CN tại địa phương (Khoản 6 Điều 50). 6. Đầu tư và cơ chế tài chính cho KH và CN (Chương VI) Đa số ý kiến của các vị ĐBQH nhất trí cho rằng những vướng mắc về cơ chế tài chính và đầu tư cho KH và CN là điểm nghẽn chủ yếu hiện nay trong hoạt động KH và CN và đề nghị Dự thảo Luật cần có quy định cụ thể hơn để tháo gỡ điểm nghẽn này cũng như thể hiện rõ hơn quan điểm phát triển KH và CN là quốc sách hàng đầu và đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư cho KH và CN. Tiếp thu ý kiến xác đáng nêu trên, Dự thảo mới đã tách quy định về các nguồn lực đầu tư cho KH và CN thành một chương riêng, được quy định một cách cụ thể, rõ nét hơn, đó là Chương VI. Chương này gồm 4 mục quy định theo hướng nâng cao hiệu quả phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn kinh phí từ NSNN, huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển KH và CN, làm nổi bật vị trí, vai trò của doanh nghiệp trong hoạt động khoa học và đổi mới công nghệ, quy định rõ ràng, cụ thể hơn về ưu đãi thuế và tín dụng cho hoạt động KH và CN. 6.1. Đối với kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước (Mục 1, Chương VI) Dự thảo mới đã được chỉnh sửa theo yêu cầu của Nghị quyết 20 là Nhà nước bảo đảm chi cho KH và CN từ 2% trở lên trong tổng chi NSNN hàng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp KH và CN. Ngân sách cho KH và CN phải được ghi thành một mục chi riêng trong mục lục NSNN hàng năm của các bộ, ngành, địa phương. Việc phân bổ NSNN dành cho KH và CN của năm sau được thực hiện trên cơ sở nhu cầu của thực tiễn và kết quả sử dụng ngân sách đã được phân bổ (Điều 49). Dự thảo mới đã chỉnh sửa, quy định rõ mục đích sử dụng NSNN cho KH và CN (Điều 50); quy định cụ thể việc xây dựng dự toán và quản lý việc sử dụng NSNN dành cho KH và CN (Điều 51); áp dụng cơ chế khoán chi cho các hoạt động KH và CN sử dụng NSNN (Điều 52) và quy định rõ cơ chế cấp, sử dụng, quản lý kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH và CN sử dụng NSNN (Điều 53). Các quy định này là cần thiết để làm rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan, đảm bảo phù hợp với đặc thù của hoạt động KH và CN và cũng không mâu thuẫn với Luật Ngân sách nhà nước. Dự thảo mới đã bổ sung Điều 54 để tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng cơ chế đầu tư đặc biệt để thực hiện các dự án KH và CN quy mô lớn phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc có tác động mạnh đến năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm quốc gia như yêu cầu tại Nghị quyết 20 và giao Thủ tướng Chính phủ quyết định nhiệm vụ, nguồn tài chính, cơ chế cụ thể và phương thức thực hiện nhiệm vụ KH và CN đặc biệt. Trường hợp vượt thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ thì phải trình Quốc hội xem xét, quyết định. 6.2. Về đầu tư cho KH và CN của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân (Mục 2 Chương VI) Để quy định rõ các biện pháp xã hội hóa đầu tư cho KH và CN, vị trí, vai trò của doanh nghiệp trong hoạt động KH và CN, các quy định về đầu tư của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cho KH và CN đã được bố cục thành một mục riêng (Mục 2 Chương VI “Đầu tư của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân”) gồm 4 điều quy định về: Huy động nguồn vốn ngoài NSNN đầu tư cho KH và CN (Điều 55); đầu tư của doanh nghiệp cho KH và CN (Điều 56); khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng kết quả NCKH và PTCN (Điều 57); phát triển doanh nghiệp KH và CN (Điều 58). 6.3. Về các quỹ trong lĩnh vực KH và CN Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH và thể hiện rõ hơn vai trò của các quỹ trong việc hỗ trợ cho hoạt động KH và CN, Dự thảo Luật đã quy định một mục riêng về các loại hình quỹ trong lĩnh vực KH và CN. Riêng đối với Quỹ phát triển KH và CN của doanh nghiệp, còn có ý kiến khác nhau: - Có một số ý kiến cho rằng chỉ bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước phải lập quỹ phát triển KH và CN, khuyến khích các doanh nghiệp khác trích thu nhập tính thuế để thành lập Quỹ phát triển KH và CN theo tinh thần của Nghị quyết 20. - Ý kiến khác cho rằng cần bắt buộc tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải trích một tỷ lệ nhất định lợi nhuận trước thuế để lập Quỹ phát triển KH và CN. Nghiên cứu các ý kiến nêu trên, đồng thời để thể chế hóa quan điểm của Nghị quyết 20, Ủy ban TVQH đề nghị chỉ quy định các doanh nghiệp nhà nước phải thành lập Quỹ phát triển KH và CN. Doanh nghiệp ngoài nhà nước được khuyến khích trích thu nhập tính thuế để thành lập Quỹ phát triển KH và CN của mình (nhưng không quy định mức tối đa được trích) hoặc đóng góp vào Quỹ phát triển KH và CN của ngành, địa phương và được hưởng quyền lợi theo quy định của Quỹ. Đồng thời, để khắc phục tình trạng không phát huy được hiệu quả sử dụng Quỹ phát triển KH và CN trong các doanh nghiệp, doanh nghiệp được toàn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng quỹ đúng mục đích thành lập. Do đó, Điều 63 “Quỹ phát triển KH và CN của doanh nghiệp” đã được chỉnh sửa, bổ sung như trong Dự thảo Luật. 6.4. Về chính sách thuế và tín dụng đối với hoạt động KH và CN Tiếp thu ý kiến ĐBQH, Dự thảo Luật đã được chỉnh sửa theo hướng quy định hoạt động KH và CN được hưởng ưu đãi về thuế, tín dụng theo quy định của pháp luật về thuế, tín dụng mà không quy định cụ thể các mức ưu đãi về thuế, tín dụng. 7. Một số vấn đề khác 7.1. Về phát triển thị trường KH và CN Một số ý kiến của các vị ĐBQH cho rằng cần đẩy mạnh phát triển thị trường KH và CN nhằm kết nối, thúc đẩy quan hệ cung - cầu công nghệ và các dịch vụ KH và CN. Tiếp thu ý kiến nêu trên, đồng thời nghiên cứu các quy định có liên quan đến thị trường KH và CN hiện hành, Dự thảo mới đã bổ sung vào Điều 6 “Chính sách của Nhà nước về phát triển KH và CN” một khoản (khoản 5) quy định “Tạo điều kiện phát triển thị trườngKH và CN”; bổ sung, hoàn thiện Điều 69 “Xây dựng và phát triển thị trường KH và CN” vào Dự thảo Luật. Về yêu cầu quy định cụ thể hơn các biện pháp phát triển thị trường KH và CN, Ủy ban TVQH xin giải trình như sau: việc ban hành các chính sách quy định tại Luật này, các luật trong lĩnh vực KH và CN cũng như các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến thị trường KH và CN đã tạo môi trường pháp lý cho việc phát triển thị trường KH và CN. Mặt khác, Chính phủ cũng đang triển khai những giải pháp cụ thể thúc đẩy phát triển thị trường này. Do đó, không cần thiết quy định cụ thể trong Luật này. 7.2. Về xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho hoạt động KH và CN (Chương VII) Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, các quy định về xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho hoạt động KH và CN đã được tách thành một chương mới (Chương VII). Trong đó, bổ sung quy định về chính sách đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật để phát triển KH và CN; khuyến khích, hỗ trợ xây dựng các trung tâm nghiên cứu ứng dụng tiến bộ KH và CN, các khu công nghệ cao, công viên công nghệ; nâng cấp và xây dựng mới các trung tâm nghiên cứu trong các trường đại học để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, ứng dụng, triển khai, thương mại hóa công nghệ mới. 7.3. Về quyền sở hữu kết quả NCKH và PTCN và phân chia lợi nhuận kết quả NCKH và PTCN sử dụng NSNN - Một số ý kiến các vị ĐBQH đề nghị cần có quy định cụ thể việc sở hữu, ứng dụng kết quả NCKH và PTCN đảm bảo quyền lợi nhà khoa học, nhất là đối với các NCKH và PTCN sử dụng NSNN. Tiếp thu ý kiến này, Dự thảo mới đã chỉnh sửa quy định về quyền sở hữu kết quả NCKH và PTCN tại Điều 41, trong đó quy định đối với kết quả NCKH và PTCN thuộc sở hữu nhà nước được đại diện chủ sở hữu nhà nước xét giao toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu, quyền sử dụng cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH và CN hoặc tổ chức có khả năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu KH và CN. - Một số ĐBQH đề nghị cần làm rõ cơ chế phân chia lợi nhuận thu được từ kết quả thực hiện nhiệm vụ KH và CN. Tiếp thu ý kiến này, Dự thảo Luật đã chỉnh sửa như sau: lợi nhuận thu được từ việc sử dụng, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng, góp vốn bằng kết quả NCKH và PTCN sử dụng NSNN được chia cho tác giả tối thiểu 30%; phần còn lại được phân chia giữa chủ sở hữu, cơ quan chủ trì, người môi giới và giao Chính phủ quy định cụ thể tỷ lệ này (Điều 43). 7.4. Về khen thưởng và xử lý vi phạm trong hoạt động KH và CN (Chương X) Một số ý kiến của các vị ĐBQH cũng như ý kiến của các chuyên gia cho rằng, cần có quy định vinh danh các nhà khoa học, ngày khoa học; cần giữ lại quy định về chế tài xử phạt như Luật KH và CN năm 2000 đã quy định. Tiếp thu ý kiến nêu trên, Dự thảo Luật đã quy định tại Điều 77 về phong, tặng danh hiệu vinh dự nhà nước theo quy định của Luật Thi đua, khen thưởng. Do đó, trong Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng nên có quy định về danh hiệu vinh dự nhà nước đối với các nhà khoa học, nhà công nghệ. Bên cạnh đó, Dự thảo mới đã chỉnh sửa Mục 5 Chương V “Giải thưởng về KH và CN” của Dự thảo cũ thành Chương X “Khen thưởng và xử lý vi phạm” và bổ sung Điều 81 quy định về xử lý vi phạm. Ngoài ra, ngày KH và CN đã được chuyển thành Điều 7 của Chương I “Những quy định chung”. * Bên cạnh các vấn đề chính nêu trên, Ủy ban TVQH đã chỉ đạo Thường trực Ủy ban KH,CN và MT phối hợp cùng Ban soạn thảo và các cơ quan có liên quan rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo Luật về nội dung và kỹ thuật lập pháp theo ý kiến của các vị ĐBQH, các chuyên gia, nhà khoa học. Đồng thời, các quy định của pháp luật có liên quan đã được dẫn chiếu mà không quy định lại trong Dự thảo Luật. Kính thưa Quốc hội, Trên đây là Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi). Ủy ban thường vụ Quốc hội xin kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
|