Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân cho rằng, để khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách là cả một quá trình gian nan. Và, nếu không bắt buộc doanh nghiệp đầu tư thì không bao giờ đủ tiền để phát triển khoa học công nghệ quốc gia.
Hạn chế “tầm gửi” vào ngân sách
Hiện nay, tiềm lực khoa học công nghệ của chúng ta yếu kém, đội ngũ làm khoa học đông về số lượng nhưng yếu về chất lượng.
Vài năm gần đây, số sáng chế công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế nổi tiếng của chúng ta là rất ít. Năm 2011, không có sáng chế nào của Việt Nam được đăng ký ở Mỹ. Chúng ta cũng chưa có một sản phẩm khoa học công nghệ nào mang thương hiệu lớn, được thế giới biết đến.
Theo ông Quân, một trong những lý do quan trọng khiến khoa học công nghệ chưa phát triển được là thiếu sự đầu tư bởi đã “sống dựa quá lâu vào ngân sách.”
Từ năm 2000, nhà nước đã chi 2% ngân sách cho khoa học công nghệ và đây là con số không hề nhỏ (tương đương 0,5-0,6% GDP). Đây là tỷ lệ tương đối rất cao so với thế giới bởi Mỹ dành 0,4%, Hàn Quốc dành 0,45% GDP...
Tuy nhiên, ở các nước trên thế giới, doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ là rất lớn. Có thể lấy ví dụ như Trung Quốc, nhà nước đầu tư 0,4% GDP, nhưng tổng đầu tư của xã hội vượt 2,5% GDP.
Năm 2008, Luật Thuế thu nhập được ban hành và lần đầu có điều khoản doanh nghiệp phải trích ít nhất 10% lợi nhuận trước thuế để đầu tư cho khoa học công nghệ. Tuy nhiên khi ban hành, điều khoản này đã bị sửa đổi và doanh nghiệp không bị buộc phải trích lợi nhuận trước thuế để đầu tư vào khoa học. Điều đó đã dẫn đến việc số doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Ông Quân cho rằng, nếu không bắt buộc doanh nghiệp đầu tư thì không bao giờ đủ tiền để phát triển khoa học công nghệ quốc gia. Bởi thế, sắp tới, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục đấu tranh khi Luật Thuế doanh nghiệp được sửa đổi để khắc phục “lỗi” trên. Mục tiêu ngành này đặt ra tới 2015 sẽ phải có 1,5% GDP đầu tư cho khoa học công nghệ (trong đó, nhà nước 0,5% và xã hội là 1%).
Cũng theo vị lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ, tiền của doanh nghiệp đầu tư sẽ mang lại hiệu quả cao hơn nhiều bởi họ quan tâm đến kết quả đưa vào ứng dụng, sản xuất. Trong khi đó, đầu tư của Nhà nước kiểm soát từng đồng, nhưng kết quả nhiều khi không quan tâm.
“Quốc gia nào khai thác được đầu tư của doanh nghiệp vào khoa học công nghệ thì mới phát triển được, nếu không nhà khoa học chỉ trong tháp ngà,” ông Quân thẳng thắn.
Thực tế cho thấy, năm 2010 Viettel thành lập viện nghiên cứu riêng và dành 10% lợi nhuận trước thuế (tương đương 120 triệu USD) đầu tư vào khoa học. Đến nay, đơn vị này đã gặt hái được một số thành tựu quan trọng, sản xuất ra các thiết bị thay thế việc nhập khẩu.
Năm 2009, Chính phủ yêu cầu Bộ Khoa học và Công nghệ hợp tác với Tập đoàn Dầu khí làm dàn khoan tự nâng với tổng giá trị hơn 2.000 tỷ đồng. Công trình này đã thành công và Việt Nam trở thành 1 trong 3 quốc gia châu Á làm được giàn khoan này.
Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng, nếu bỏ ra 1 đồng đầu tư cho khoa học công nghệ thì thu được 5-6 đồng lợi nhuận. Và những ví dụ trên là tín hiệu đáng mừng để khoa học và công nghệ phát triển.
Thêm "tiếng nói" cho Bộ chủ quản
Bên cạnh việc huy động xã hội hóa đầu tư vào khoa học công nghệ, thì việc phân bổ ngân sách cho lĩnh vực này cũng là vấn đề cần phải bàn tới.
Ông Quân cho hay, trong 2% ngân sách dành cho khoa học công nghệ hiện nay, chỉ khoảng 10% dành cho các đề tài nghiên cứu, còn lại 90% được phân bổ bởi bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính. Do đó, Bộ Khoa học và Công nghệ không có thông tin hiệu quả đầu tư đến đâu, ngân sách được sử dụng thế nào. Từ đó, Bộ “không cắt được với tỉnh đầu tư không hiệu quả cũng như cho thêm tiền địa phương hoạt động tốt.”
“Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ đề xuất được quản lý tiền đầu tư cho khoa học, hoặc được giám sát, có quyền đề xuất phân bổ ngân sách sử dụng thì mới đảm bảo tiền được đầu tư đúng chỗ, chứ không thể cào bằng nhằm tạo ra được sản phẩm cuối cùng,” ông Quân nói.
Bên cạnh đó, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đã kiến nghị với Chính phủ để sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ, tập trung vào 3 vấn đề lớn: Đầu tư nguồn lực; Cơ chế tài chính và Chính sách đãi ngộ, trọng dụng cho khoa học và công nghệ.
Ông Quân cũng cho hay, thực tế 3 vấn đề này đã được các nhà khoa học kêu từ lâu, song bây giờ Bộ mới “động tới.” Những vấn đề này đã định lồng ghép trong một số Luật khác (như Luật Thuế, Luật Ngân sách...). Tuy nhiên, Bộ Khoa học và Công nghệ không phải cơ quan chủ trì các luật trên, nên khi tiếp thu ý kiến là rất hạn chế nên ý tưởng của Bộ không đạt được 100%.
Tuy nhiên, ông Quân cũng thừa nhận, khi đưa những ý tưởng trên vào Luật Khoa học công nghệ sẽ gặp phải một luồng ý kiến khác. Ví dụ đưa những quy định về thuế, người ta sẽ cho rằng không phải đưa vào luật này mà nên đưa vào Luật Thuế. Về xây dựng ngân sách, chính sách đãi ngộ cũng có Luật Ngân sách, Luật Viên chức...
“Tôi tin sẽ có tranh luận kịch liệt trong các phiên họp của Quốc hội,” ông Quân phỏng đoán.
Tuy nhiên, ông Quân cho rằng nếu như chúng ta cứ chờ các Luật khác để đưa những chính sách đổi mới này vào thì một là chưa biết đến khi nào, hai là Bộ Khoa học Công nghệ không chủ trì các luật chuyên ngành ấy thì những ý tưởng đổi mới cũng sẽ không được tiếp thu một cách đầy đủ./.