Bản in
Chế định về khoa học, công nghệ trong Hiến pháp 1992 - những tồn tại cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới (Phần cuối)
Trên quan điểm Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 về KH – CN, nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện. Trong đó có Nghị quyết Trung ương 2 Khóa VI (1996), Nghị quyết số 27 – NQ/TƯ Hội nghị Trung ương 7 về phát triển đội ngũ tri thức trong thời kỳ công nghiệp hóa (năm 2007), Chiến lược KH – CN 2000 – 2010..

Việc thực thi Hiến pháp 1992 trong lĩnh vực khoa học và công nghệ

Trên quan điểm Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 về KH – CN, nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện. Trong đó có Nghị quyết Trung ương 2 Khóa VI (1996), Nghị quyết số 27 – NQ/TƯ Hội nghị Trung ương 7 về phát triển đội ngũ tri thức trong thời kỳ công nghiệp hóa (năm 2007), Chiến lược KH – CN 2000 – 2010... Hệ thống pháp luật về KH – CN không ngừng được hoàn thiện. Nếu giai đoạn của Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 (từ 1960 – 1992) chỉ có 51 Luật được ban hành thì đến giai đoạn Hiến pháp 1992 (1992 – 2011) có 238 Luật được thông qua. Trong đó có những Luật điều chỉnh trực tiếp đến KH – CN là Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, năm 2009; Luật Công nghệ cao năm 2008, Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005...

Những con số trên cho thấy, trên quan điểm Hiến pháp 1992 định hướng hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, việc ban hành các văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về KH – CN nói riêng đã được đẩy mạnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động phát triển KT – XH trong thời kỳ mới.

Cơ chế quản lý KH – CN đã có sự chuyển biến tích cực, quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân hoạt động KH – CN không ngừng được cải thiện, đóng góp của KH – CN đã phục vụ kịp thời cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường. Quyền được tự chủ, tự chịu trách nhiệm được tăng cường; các quyền của tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH – CN được quy định đầy đủ. Như vậy, hoạt động của tổ chức KH – CN được mở rộng, đa dạng hóa, sản phẩm được tiếp cận hơn với thị trường.

Đầu tư cho KH – CN được coi trọng, được xác định là đầu tư phát triển theo Luật Khoa học và Công nghệ cũng như được tăng hàng năm theo yêu cầu của hoạt động KH – CN. Ngay sau khi Luật Khoa học và Công nghệ có hiệu lực thi hành, chi ngân sách cho hoạt động  KH – CN được ấn định 2% ngân sách và tăng dần hàng năm. Việc đầu tư được tập trung vào lĩnh vực KH – CN trọng điểm, công nghệ cao. Đầu tư cho KH – CN được đa dạng hóa từ nhiều nguồn vốn như: ngân sách nhà nước, Quỹ phát triển KH – CN, Quỹ quốc gia về đổi mới công nghệ và Quỹ quốc gia về đầu tư mạo hiểm công nghệ cao cũng đang được xem xét thành lập theo Luật Công nghệ cao, Luật Chuyển giao công nghệ…

Luật Đầu tư khuyến khích đầu tư một số địa bàn trọng điểm như: khu công nghệ cao, lĩnh vực KH – CN trọng điểm, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, một số lĩnh vực được ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho một số lĩnh vực như hỗ trợ phát triển dịch vụ đầu tư về sở hữu trí tuệ, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo.

Luật Công nghệ cao quy định về ưu tiên đầu tư cho một số lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới. Việc đầu tư cho KH – CN là một thành công trong việc huy động các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước đầu tư cho KH – CN. Tuy nhiên, tỷ lệ đầu tư cho KH – CN ở nước ta còn thấp. Năm 2011, mức chi từ ngân sách nhà nước cho KH – CN là 11.559 tỷ đồng (chưa bao gồm chi cải cách tiền lương), chiếm tỷ lệ trên 2% ngân sách nhà nước. Chênh lệch tỷ lệ đầu tư giữa khu vực Nhà nước và tư nhân còn cao (tư nhân đầu tư khoảng 25%, Nhà nước khoảng 75%) trong khi nhiều nước phát triển, ví dụ ở Mỹ, tư nhân đầu tư 62,3%, Chính phủ 27,7%, các nguồn khác 10,0%. Còn ở Nhật Bản, tỷ lệ đầu tư của tư nhân là 77,1%, Chính phủ 16,2% và từ các nguồn khác 6,7%...

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động KH – CN cũng được tăng cường. Luật Khoa học và Công nghệ đã quy định rõ quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân hoạt động KH – CN, trong đó có quyền tự do nghiên cứu, được hưởng lợi, sở hữu kết quả nghiên cứu. Luật Sở hữu trí tuệ quy định rõ quyền tác giả đối sản phẩm nghiên cứu khoa học. Đây là động lực thúc đẩy sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu. Cùng với đó là việc áp dụng tiến bộ KHKT, công nghệ cũng gia tăng mạnh mẽ như: các ngành sản xuất linh kiện điện tử, bưu chính, viễn thông, sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, chế biến thủy sản, xây dựng cầu đường, khám chữa bệnh, may mặc... Theo thống kê của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), chỉ số đổi mới công nghệ toàn cầu của Việt Nam tăng dần hàng năm, năm 2009 đứng thứ 71, năm 2010 đứng thứ 51 chỉ số về đổi mới công nghệ toàn cầu.

Cùng với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế kinh tế thị trường, cơ chế quản lý KH – CN cũng có sự chuyển biến. Thị trường KH – CN bước đầu được tạo lập, thể hiện qua việc đặt hàng các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, số lượng kết quả KH – CN được chuyển giao, các techmart được tổ chức hàng năm quy mô quốc tế và cấp vùng được tăng cường; các sàn giao dịch KH – CN cũng được tổ chức thường xuyên ở một số thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Số lượng giao dịch công nghệ liên tục tăng: giai đoạn 2001 – 2005 là 10.064 giao dịch; giai đoạn 2006 – 2010 là 30.352 giao dịch. Từ 2003 – 2009, cả nước đã có 4 kỳ Techmart quy mô quốc gia và quốc tế; hơn 20 Techmart cấp khu vực và tỉnh. Nhiều hội chợ sản phẩm mới, chợ công nghệ và thiết bị ảo, các hoạt động hậu Techmart cũng được triển khai rộng khắp ở các địa phương.

KH – CN đã có sự gắn kết với hoạt động sản xuất kinh doanh. Tổng nguồn thu của các viện nghiên cứu trong các năm gần đây (2006 – 2008) tăng trên 1,8 lần so với giai đoạn trước, trong đó nguồn thu từ các hợp đồng kinh tế chiếm trên 50% tổng thu của cá tổ chức R – D. Điều này còn thể hiện rõ qua việc tổng kết 3 năm thực hiện Nghị định 115/2005/NĐ – CP về tự chủ trong hoạt động KH – CN.

Đội ngũ trí thức được xây dựng và tăng cường cả về chất lượng và số lượng. Năm 2008 cả nước có trên 1.300 tổ chức KH và CN. Đó là chưa tính nguồn nhân lực của trên 250 trường đại học, học viện và cao đẳng với gần 50.000 giảng viên.

Có được thành tựu nên trên là do chúng ta đã xác định đúng vai trò, định hướng phát triển KH – CN và có sự quan tâm đồng bộ về đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nghiên cứu. Có sự đổi mới về sở hữu tư nhân trong phát triển KT – XH. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân đã tạo môi trường thuận lợi phát triển mạnh khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Đây là thị trường lớn cho việc nghiên cứu, phát triển công nghệ tạo ra sản phẩm tiện ích cho xã hội. Hiện chưa có con số thống kê đóng góp của KH – CN cho kinh tế nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng nhưng có thể thấy rõ qua việc tăng trưởng nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân qua các giai đoạn. Tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh năm 2009 của doanh nghiệp ngoài nhà nước là  3.549.209 tỷ đồng (chiếm 45,66%), doanh nghiệp nhà nước là 3.001.623 tỷ đồng (chiếm 38,62%), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 1.221.722 tỷ ( chiếm 15,72%). Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp ngoài nhà nước sau 5 năm tăng gấp 8,76 lần (1.289.190 tỷ năm 2009 so với 147.222 tỷ năm 2004). Góp phần làm tăng giá trị tài sản xã hội trong giai đoạn 2006 – 2010 gấp 2 lần so với giai đoạn  2001 – 2005. Qua số liệu trên cho thấy có sự đổi mới về sở hữu tư nhân trong phát triển KT – XH và nhờ đó doanh nghiệp có điều kiện để đầu tư vốn cho KH – CN cho những năm tới đây. Những thành tựu trong lĩnh vực KH – CN còn xuất phát từ sự quan tâm, tăng cường thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Số lượng đơn đăng ký sáng chế tăng từ 460 đơn (giai đoạn 1981 – 1988) lên hơn 3.500 đơn (trong năm 2010). Số lượng bằng độc quyền sáng chế được cấp cả giai đoạn 1981 – 1988 là 81 bằng, năm 2010 tăng lên 822 bằng. Số lượng bằng độc quyền sáng chế, bằng độc quyền giải pháp hữu ích, số lượng đăng ký kiểu dáng công nghiệp tăng đáng kể: 



Đây được coi là động lực chính thúc đẩy làm người làm khoa học nghiên cứu sáng tạo.

Tuy nhiên, lĩnh vực KH – CN cũng còn một số tồn tại, hạn chế. Tiềm lực KH – CN còn tập trung chủ yếu ở khu vực nhà nước, khu vực tư nhân chưa phát triển tương xứng. Năng lực các tổ chức R – D còn hạn chế, chậm tiếp cận với thị trường, tính tự chủ chưa cao. Kinh phí cho KH – CN chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Đây là hạn chế lớn trong việc thực thi Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi trong việc thu hút nguồn vốn của toàn xã hội đầu tư cho KH và CN.

Pháp luật về KH – CN chưa hoàn thiện, việc thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ chưa được coi trọng đúng mức, vì vậy chưa khuyến khích nghiên cứu phát minh, sáng chế, thúc đẩy mạnh mẽ thị trường công nghệ. Cơ chế quản lý KH – CN tuy được đổi mới nhưng vẫn mang tính hành chính. Môi trường thực thi quyền tự chủ tại tổ chức hoạt động khoa học chưa hoàn thiện, vì vậy chưa khuyến khích được sáng tạo và đổi mới công nghệ.

Sức ỳ của bộ máy hành chính nhà nước còn lớn, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước chưa cao lại cắt theo tầng nấc hành chính. Nhận thức của các ngành, các cấp, các giới khác nhau về KH – CN khó tạo đồng thuận về nhận thức đổi mới KH – CN. Thu nhập của người làm KH – CN còn thấp (hiện vẫn theo ngạch bậc lương hành chính); trang thiết bị nghiên cứu còn lạc hậu… cùng với thị trường KH – CN chưa phát triển cũng làm giảm sức sáng tạo của lực lượng KH – CN. Thị trường công nghệ chưa phát triển, việc ứng dụng KH – CN trong các doanh nghiệp còn hạn chế.

Yêu cầu và định hướng cho phát triển KH - CN trong giai đoạn 2011 - 2020

Sự  phát triển KH – CN trên thế giới cho thấy xu thế đổi với tốc độ nhanh trong KH –CN do sự tác động của công nghệ thông tin, sự thay đổi nhanh chóng trong nhu cầu tiêu dùng, cạnh tranh của sản phẩm trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quy mô toàn cầu. Xu thế xuất hiện những khả năng tạo đột biến trong phát triển kinh tế - xã hội. Những thành tựu KH – CN hiện đại nâng cao khả năng tư duy của con người, vượt khỏi giới hạn sinh học hiện nay và tác động mạnh mẽ tới các lĩnh vực của đời sống xã hội. Độ tích hợp cao trong các hoạt động KH – CN và hoạt động xã hội ngày càng cao, tạo động lực cho KH – CN trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, phục vụ thiết thực nhu cầu con người.

Từ nay đến năm 2020, định hướng phát triển KH – CN ở nước ta là: phát triển KH – CN trở thành động lực then chốt của quá trình phát triển. Phát triển xây dựng đội ngũ trí thức mạnh về KH – CN và phát triển nền kinh tế tri thức trong quản lý xã hội, phát triển kinh tế theo hướng bền vững, giảm khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo.

Tăng cường năng lực nghiên cứu cơ bản, tập trung phát triển năng lực làm chủ và sáng tạo công nghệ, góp phần phát triển thị trường công nghệ và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ phát triển kinh tế, trước mắt, đó là an ninh lương thực, an ninh năng lượng, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, đồng thời chú ý tới sự phát triển cân đối, hợp lý, lâu dài của các ngành KH – CN nói chung.

Đẩy mạnh ứng dụng và đổi mới trong công nghệ, đặc biệt một số ngành then chốt như điện tử, cơ khí, chế tạo máy, hóa chất, năng lượng; ưu tiên công nghệ tiên tiến, công nghệ có hàm lượng trí thức cao ở những ngành, những lĩnh vực có tác động chi phối nền kinh tế quốc dân, những ngành có giá trị gia tăng hoặc công nghệ có hàm lượng tri thức cao.

Tạo bước chuyển đột phá cho đầu tư và phát triển tiềm lực KH – CN; tăng cường nguồn đầu tư từ xã hội cho phát triển KH – CN, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ.

Đề xuất sửa đổi bổ sung một số nội dung về KH - CN trong Hiến pháp 1992

Để phát huy hiệu quả của KH – CN trong công cuộc xây dựng đất nước, về quan điểm sửa đổi Hiến pháp 1992, chỉ nên sửa đổi, bổ sung một số điều cần thiết, không nên sửa đổi toàn bộ. Về vai trò của KH- CN, đề nghị vẫn giữ quan điểm phát triển KH – CN là quốc sách hàng đầu; KH – CN trở thành động lực, là công cụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội, cho phát triển kinh tế tri thức giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa tới đây ở nước ta.

Về định hướng phát triển KH – CN, cần xây dựng và thực hiện hệ thống đổi mới quốc gia (NIS), lấy doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy các liên kết và tạo động lực cho các yếu tố khác của hệ thống; xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng nghiên cứu. Coi thực thi có hiệu quả pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ là động lực thúc đẩy nghiên cứu, sáng tạo, đổi mới công nghệ, để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam. Coi trọng sở hữu tư nhân đồng thời với các quyền tự do khác của con người, khẳng định vai trò cá nhân là chủ thể trong hoạt động sáng tạo và bảo hộ các quyền tự do cá nhân. Tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và trong hoạt động KH – CN nói riêng.

Điều 38 nên được sửa đổi bổ sung như sau: “Nhà nước đầu tư và thúc đẩy xã hội hóa đầu tư cho KH – CN bằng cách tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu đổi mới công nghệ, tài trợ cho khoa học bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học bằng cách đảm bảo quyền sở hữu của các tác giả và nhà phát minh đối với các tác phẩm và phát minh trong thời gian hạn định; ưu tiên cho những hướng khoa học, công nghệ mũi nhọn, chăm lo đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật nhất là những người có trình độ cao, công nhân lành nghề và nghệ nhân; tạo điều kiện để các nhà khoa học sáng tạo và cống hiến; phát triển nhiều hình thức tổ chức, hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất – kinh doanh.

Pgs.Ts Nguyễn Đăng Vang