Bản in
GLTT: “Hướng tới ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5”
Kính mời độc giả theo dõi toàn văn nội dung giao lưu dưới đây.

Nhằm biểu dương, tôn vinh đội ngũ cán bộ làm Khoa học Công nghệ (KH&CN) cũng như tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các thành tựu KH&CN, đồng thời nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của khoa học và công nghệ; Động viên thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên say mê nghiên cứu khoa học, góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…

Báo Đất Việt phối hợp với Trung tâm truyền thông Khoa học Công nghệ - Bộ Khoa học Công nghệ tổ chức buổi giao lưu trực tuyến trên báo Đất Việt Online với chủ để: “Hướng tới ngày khoa học công nghệ 18/5”.

Thời gian: từ 9h00 - 11h00, thứ Ba ngày 29/4/2014. Địa điểm: Tòa soạn Báo Đất Việt - 3/C11, Ngõ 17, Hoàng Ngọc Phách, Đống Đa, Hà Nội.

Các khách mời đã có mặt tại tòa soạn đúng 9h sáng, và đã sẵn sàng cho buổi giao lưu. Kính mời độc giả theo dõi toàn văn nội dung giao lưu dưới đây.

TS Nguyễn Xuân Toàn- GĐ Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông, Bộ Khoa học và Công nghệ.

Xin ông cho biết ý nghĩa của ngày Khoa học Công nghệ Việt Nam. Tại sao Bộ Khoa học lại chọn ngày 18/5 là ngày KH&CN Việt Nam mà không phải là một ngày nào khác thưa ông? (Đức Hùng, Sinh viên ĐH Quốc gia, HN)

Ông Nguyễn Xuân Toàn, GĐ Trung tâm nghiên cứu và Phát triển truyền thông đang suy nghĩ trước câu hỏi của độc giả.

Ông Nguyễn Xuân Toàn : Như chúng ta đều biết KH&CN đã có nhiều đóng góp to lớn trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một sự kiện có ý nghĩa lịch sử của ngành là vào ngày 18/5/1963, tại Đại hội lần thứ Nhất của Hội phổ biến Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự và phát biểu: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. Câu nói cô đọng và giản dị của Bác đã hàm chứa đầy đủ nhận thức và trách nhiệm của mỗi người chúng ta đối với sự phát triển KH&CN nước nhà.

Với lý do đó, Bộ KH&CN đã đề xuất Chính phủ trình Quốc Hội thông qua Luật KH&CN năm 2013 ngày 18/6/2013, tại kỳ họp thứ 5 Quốc Hội khóa XIII, trong đó quy định ngày 18/5 là ngày KH&CN Việt Nam.

Năm 2014 là năm đầu tiên công bố Ngày KH&CN Việt Nam, từ năm nay vào dịp này hàng năm, Ngày 18/5 sẽ thực sự là ngày hội của người hoạt động trong lĩnh vực KH&CN và toàn xã hội. Đây là dịp chúng ta tri ân, tôn vinh các Nhà khoa học xuất sắc, các công trình KH&CN có giá trị đóng góp cho sản xuất và đời sống, biểu dương người dân và các bạn trẻ đam mê KH&CN và các đơn vị ứng dụng KH&CN tiên tiến hiện đại.  Đồng thời cũng là dịp để mỗi người chúng ta, nhà khoa học, người làm KH&CN, doanh nghiệp, nhà quản lý nâng cao mạnh mẽ nhận thức và trách nhiệm thúc đẩy KH&CN đóng góp cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Từng bước để Ngày KH&CN là dấu ấn trong cả năm và biến KH&CN trở thành văn hóa trong xã hội. Nhân dịp này, trong nhiều tháng gần đây, các cơ quan thông tấn báo chí đã có rất nhiều tin bài phong phú và đa dạng phản ánh về Ngày KH&CN Việt Nam. Đây thực sự là sự ủng hộ, động viên to lớn đối với giới làm KH&CN.

Để kỉ niệm ngày quan trọng này, về phía Bộ KH&CN đã có những chuẩn bị cụ thể nào, sự phối hợp của Bộ với các đơn vị khác trực thuộc ra sao để ngày khoa học thực sự ghi dấu ấn ngay lần tổ chức đầu tiên này thưa ông? Cụ thể là công việc chuẩn bị cho ngày này tại các Sở KH&CN các tỉnh ra sao? (Nông Thị Huyền, Quảnh Ninh)

Trong không khí phấn khởi của đông đảo người tâm huyết và cộng đồng đối với sự nghiệp KH&CN, Bộ KH&CN đã có chủ trương phối hợp tổ chức Ngày KH&CN Việt Nam 18-5 tại các bộ ngành, địa phương, các cơ sở khoa học ở viện, trường trong toàn quốc. Ban Tổ chức và một số tiểu ban đã cụ thể hóa các hoạt động chào mừng với nhiều nội dung và hình thức phong phú. Lễ Công bố lần đầu tiên Ngày KH&CN Việt Nam sẽ được tổ chức vào đúng ngày 18/5 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình với sự tham dự của các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội và của hàng nghìn người quan tâm đến lĩnh vực KH&CN. Ngày 17/5 tại Hà Nội, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước gặp mặt các nhà khoa học và thanh niên sinh viên, Lễ trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu cho các tác giả có công trình nghiên cứu ứng dụng KH&CN xuất sắc. Tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình tổ chức triển lãm trưng bày thành tựu KH&CN nổi bật.

Đồng thời tại các Thành phố lớn và một số địa phương, Tuần Lễ KH&CN Quốc gia sẽ được tổ chức với rất nhiều hoạt động đa dạng. 63 tỉnh thành trong cả nước, với Sở KH&CN là đầu mối, đã có kế hoạch và chương trình tổ chức Ngày KH&CN. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, các Đại học Quốc gia, các viện nghiên cứu, trường đại học và nhiều cơ sở KH&CN đã thành lập Ban Tổ chức và cụ thể hóa các nội dung hoạt động chào mừng Ngày KH&CN. Các hoạt động chủ yếu có thể kể đến là: hội thi sáng tạo; trao Giải thưởng KH&CN; tổ chức triển lãm, giới thiệu các thành tựu kết quả KH&CN; kết nối cung cầu công nghệ; hội chợ công nghệ; giao lưu giữa giới trẻ với các nhà khoa học và tổ chức KH&CN; các hội nghị hội thảo trong nước và quốc tế;… Một hoạt động rất có ý nghĩa để thanh thiếu niên, học sinh sinh viên tiếp cận với KH và CN, khơi dậy niềm đam mê KH và CN là các bạn trẻ có thể tham quan hàng loạt phòng thí nghiệm tại các cơ sở KH và CN, tìm hiểu quá trình nghiên cứu thực hiện tại các cơ sở đó, chuyện trò với các cán bộ nghiên cứu. Các phòng thí nghiệm được đồng loạt mở cửa trong dịp này nằm tại các thành phố Hà Nội, TP.HCM, Nha Trang, Đà Lạt…trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công Nghệ Việt Nam, các Đại học Quốc gia và tại nhiều Viện,Trường khác.

Hoạt động nổi bật chào mừng Ngày KH và CN tại các địa phương có thể ví dụ như Bộ KH và CN phối hợp với Đại học Đà Nẵng, Sở KH và CN Đà Nẵng tổ chức khai mạc Tuần lễ KH và CN Quốc gia với hàng loạt các sự kiện: Hội nghị Quốc tế về đổi mới hoạt động KH và CN và truyền thông KH và CN với nhiều đại biểu, chuyên gia trong và ngoài nước; giao lưu với sinh viên chủ đề đổi mới sáng tạo – chìa khóa của thành công,…Thành phố Đà Nẵng tổ chức tổng kết giải thưởng sáng tạo KH và CN năm 2013, tổ chức Hội thi sáng tạo dành cho thanh thiếu niên nhi đồng,…tỉnh Quảng Ninh tổ chức Festival sáng tạo trẻ, tổ chức thăm quan Bảo tàng, Thư viện cho học sinh, sinh viên...Tại Trà Vinh, Sở KH và CN phối hợp tổ chức tọa đàm về ứng dụng KH và CN, Hội nghị đánh giá về Sở hữu trí tuệ,…Các tỉnh thành khác cũng đã có kế hoạch và thông báo đến công chúng về các hoạt động tại địa phương mình.

Được biết ông là giám đốc Trung tâm nghiên cứu và phát triển truyền thông KH và CN trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Xin ông cho biết những công việc chính mà Trung tâm đảm nhận là gì? Những kết quả nổi bật mà Trung tâm đã đạt được trong thời gian qua? (PV tờ khampha.vn hỏi)

Hoạt động truyền thông KH và CN được Bộ KH và CN coi là một trong những hoạt động quan trọng của ngành. Mục đích của công tác truyền thông là nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ quản lý, nhà Khoa học, doanh nghiệp và công chúng đối với vai trò và tác động của KH và CN trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, an sinh xã hội. Chính vì vậy hoạt động truyền thông KH và CN cần làm tốt các công việc sau đây: Tuyên truyền phổ biến chủ trương đường lối, cơ chế chính sách phát triển KH và CN đến mọi cộng đồng xã hội; Nêu bật được đóng góp to lớn, các thành tựu quan trọng của KH và CN, tôn vinh biểu dương các nhà khoa học, các công trình nghiên cứu có giá trị với sản xuất và đời sống để khẳng định hiệu quả của KH và CN trong sản xuất và đời sống; Đưa đến công chúng mọi mặt hoạt động KH và CN của các Bộ ngành, địa phương, các cá nhân và tổ chức KH và CN nhằm thúc đẩy các ứng dụng KH và CN.

Nhận thức vai trò của công tác truyền thông KH và CN, Trung tâm chúng tôi đã tổ chức thực hiện nhiều hoạt động đa dạng. Phối hợp với các đơn vị trực thuộc Bộ KH và CN truyền thông các hoạt động của Bộ và ngành; Phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí ở Trung ương, địa phương, các bộ ngành xây dựng nhiều chương trình truyền thông, đa dạng các loại hình: Phát thanh, Truyền hình, Báo in, Báo điện tử, Internet…; Tổ chức các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và bồi dưỡng về nghiệp vụ kỹ năng truyền thông KH và CN; Hợp tác với các cơ quan trong và ngoài nước phát triển công tác truyền thông KH và CN….Một điều quan trọng trong giai đoạn tới chúng tôi sẽ sớm hoàn thiện và trình Bộ KH và CN đề án phát triển truyền thông KH và CN trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 khóa XI của Đảng, Luật KH và CN năm 2013, chiến lược phát triển KH và CN đến năm 2020.

Nhân chào mừng ngày KH và CN Việt Nam 18/5, Trung tâm đã kết nối với các cơ quan thông tấn báo chí bám sát các sự kiện diễn ra từ đầu năm để đưa đến công chúng các hoạt động sâu rộng tại các địa bàn: Hàng tuần phối hợp thực hiện các chuyên mục trên các kênh truyền hình, phát thanh của VTV, Truyền hình thông tấn, VOV, Truyền hình Hà Nội, Cổng thông tin điện tử Chính phủ,…thực hiện các chuyên trang KH và CN trên các Báo in, Báo điện tử, cổng thông tin điện tử, tạp chí,…Trung tâm cũng đã tổ chức phối hợp với các đơn vị các hoạt động liên quan đến nghiên cứu, đào tạo và bồi dưỡng về truyền thông KH và CN.

Ai cũng biết rằng, để kết quả nghiên cứu khoa học được ứng dụng vào thực tiễn phải đảm bảo rất nhiều yếu tố. Một trong những cầu nối quan trọng dẫn đến thành công là công tác truyền thông đến xã hội. Nhìn nhận một cách thẳng thắn, ông đánh giá hiện nay công tác này đã thật sự mang lại hiệu quả hay chưa? (Đàm Sen, tp.HCM)

Câu hỏi của bạn rất thú vị, sự kết nối giữa nghiên cứu của nhà khoa học với ứng dụng thực tiễn kết quả nghiên cứu của doanh nghiệp, người dân rất cần sự tích cực từ cả hai phía; Nếu làm tốt công tác truyền thông thì cũng đẩy nhanh được quá trình liên kết. Trong nhiều năm qua thông qua phương tiện thông tin đại chúng, các loại hình truyền thông như triển lãm, hội nghị, hội thảo, hội chợ,…mối liên kết nghiên cứu ứng dụng trong thực tiễn đã có rất nhiều kết quả đáng khích lệ đặc biệt trong giai đoạn nền kinh tế vượt qua giai đoạn khủng hoảng và đòi hỏi nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của sản phẩm. Tuy vậy công tác truyền thông để kết nối nghiên cứu ứng dụng chưa tương xứng với yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Thời lượng các chương trình chuyên trang, chuyên mục KH và CN trên các phương tiện thông tin đại chúng còn ít, chưa có kênh truyền hình riêng nào về KH và CN; Đội ngũ cán bộ khoa học làm truyền thông và đội ngũ nhà báo thấu hiểu truyền thông KH và CN còn ít và chưa được trang bị kỹ năng đầy đủ. Các hình thức truyền thông KH và CN chưa phong phú, phần nào ảnh hướng đến hiệu quả truyền thông KH và CN.

Để đẩy mạnh công tác này, cần thiết phải đầu tư cho hoạt động truyền thông KH và CN. Đội ngũ các nhà báo, cán bộ truyền thông KH và CN cần được tăng về số lượng và chất lượng, thường xuyên được đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ. Các cơ quan thông tấn báo chí nâng cao số lượng, thời lượng chương trình, nội dung hình thức các chuyên mục, tin bài về KH và CN. Cơ sở hạ tầng cho truyền thông KH và CN cần được đầu tư nhằm phổ biến nhanh và đầy đủ kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống: Hệ thống dữ liệu thông tin KH và CN, kênh truyền hình hấp dẫn thu hút độc giả về KH và CN, hệ thống bảo tàng công viên khoa học, thường xuyên tổ chức hội chợ triển lãm rộng rãi,…

Để ngày khoa học thực sự trở thành ngày hội, có ý nghĩa đối với giới khoa học nói chung và toàn xã hội nói riêng, ông có điều gì muốn chia sẻ với độc giả báo Đất Việt thưa ông?

Năm 2014 là năm đầu tiên toàn xã hội và lực lượng làm khoa học trong cả nước vui mừng chào đón ngày KH và CN Việt Nam và đó thực sự là ngày hội trên toàn quốc. Các hoạt động đa dạng phong phú trong nhiều ngày qua đã được thông tin và phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chúng tôi hi vọng rằng thông qua việc tham dự hưởng ứng của toàn xã hội trong các sự kiện, mỗi chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn về xu thế tất yếu phát triển đất nước từ KH và CN và bằng KH và CN. Bản thân tôi gắn bó với hoạt động đào tạo và nghiên cứu cũng mong muốn chia sẻ trước mỗi thành công và khó khăn đối với phát triển KH và CN. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tôi cũng rất vui khi biết được hiện nay rất nhiều bạn trẻ đã quan tâm, ham tìm hiểu, đam mê và giành được nhiều giải thưởng giá trị trong nghiên cứu ứng dụng. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng rằng KH và CN sẽ ngày càng có đóng góp thiết thực và hiệu quả đối với sự phát triển nhanh của đất nước.\

TS Trần Việt Hùng, Phó chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam.

Thưa ông Hùng! Tôi là một độc giả trung thành của Báo Đất Việt. Tôi đã tham gia đặt câu hỏi cho ông tại một số giao lưu do báo Đất Việt tổ chức có ông tham gia. Tôi thật sự ấn tượng với những câu trả lời của ông. Nhân kỷ niệm ngày khoa học công nghệ Việt Nam vào ngày 18/5 tới, tôi xin hỏi đối với ông nói chung và các nhà khoa học nói riêng, sự kiện này có ý nghĩa như thế nào? (Ngọc Ánh, Hà Nội)

TS Trần Việt Hùng: Ngày KHCN Việt Nam năm nay là sự kiện rất có ý nghĩa đối với giới khoa học Việt Nam bởi vì đây là lần đầu tiên những người làm công tác khoa học và công nghệ có một ngày của riêng mình. Đây không chỉ là ngày nhằm tôn vinh những nhà nghiên cứu, những người làm khoa học, công nghệ có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước mà còn là ngày để giới thiệu các thành tựu KHCN của đất nước với người dân, là cơ hội để nâng cao nhận thức của xã hội đối với vai trò của KHCN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trong ngày này, những người làm công tác KHCN cũng có dịp để trao đổi, chia sẻ những kết quả nghiên cứu của mình cũng như những dự định nghiên cứu trong tương lai.Hy vọng những hoạt động này sẽ tạo thêm động lực cuốn hút thế hệ trẻ đến với các hoạt động KHCN.

Để chào mừng ngày quan trọng của toàn giới khoa học như thế này phía LHH có những hoạt động thiết thực gì để phối hợp với Bộ Khoa học nhân dịp này thưa ông? (tranthanhviet198x@gmail.com).

Liên hiệp hội Việt Nam đã tổ chức thực hiện Ngày KHCNVN và có công văn chỉ đạo các hội ngành toàn quốc phối hợp với các bộ quản lý ngành, liên hiệp hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, phối hợp với các Sở KH&CN xây dựng kế hoạch, kịch bản tổ chức các sự kiện KHCN ở các ngành, các địa phương theo tinh thần công văn số 854/BKHCN – KHTH ngày 17/3/2014 của Bộ KH&CN.

Riêng tại thủ đô Hà Nội, các hoạt động kỷ niệm tập trung vào một số nội dung như:

- Tổ chức lễ tổng kết và trao giải thưởng Sáng tạo KH&CN Việt Nam, giải thưởng WIPO và giải thưởng cúp vàng sở hữu trí tuệ Việt Nam.

- Tổ chức các hội thảo khoa học, tọa đàm; gặp gỡ, giao lưu tôn vinh khen thưởng các nhà khoa học, tổ chức khoa học, các nhà quản lý, nhà giáo tiêu biểu, xuất sắc; thăm hỏi động viên các trí thức tiêu biểu, các nhà khoa học gặp hoàn cảnh khó khăn cần quan tâm giúp đỡ.

- Phối hợp với Bộ KH&CN tổ chức trưng bày triển lãm giới thiệu thành tựu KH&CN Việt Nam cũng như tổ chức hoạt động mít tinh kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5/2014.

- Đây là lần đầu tiên tổ chức kỷ niệm Ngày KH&CN Việt Nam vì vậy chúng tôi rất muốn các bạn đóng góp thêm những ý tưởng mới cho hoạt động này, chúng tôi xin sẵn sàng tiếp thu để tổ chức Ngày KH&CN Việt Nam lần sau phong phú, sinh động hơn.

Ông Trần Việt Hùng đang trả lời câu hỏi của độc giả. Ảnh Minh Tú

Thưa ông Hùng, tôi được biết, mục đích của việc tổ chức ngày KH&CN Việt ngoài việc tôn vinh những nhà khoa học có đóng góp thì việc động viên thế hệ trẻ say mê nghiên cứu khoa học là vô cùng quan trọng. Với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam, LHH đã và đang có những biện pháp cụ thể nào để thực hiện việc này? (Nhungnguyenx@yahoo.com)

Trong những năm qua Liên hiệp hội Việt Nam cũng rất chú trọng đến việc động viên thế hệ trẻ say mê nghiên cứu khoa học và coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Liên hiệp hội cũng như của các hội thành viên. Bằng những nguồn tài chính huy động của các tổ chức trong và ngoài nước, Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam đã phối hợp với các hội thành viên và Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức thường kỳ hàng năm các cuộc thi Olympic các môn: toán học, tin học, cơ học, vật lý và hóa học. Tổ chức giải thưởng Loa thành cho các sinh viên xuất sắc của ngành kiến trúc, tổ chức cuộc thi cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước dành cho lứa tuổi học sinh; tổ chức trao giải thưởng Nguyễn Văn Đạo cho những nhà cơ học trẻ xuất sắc. Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam thông qua Quỹ Vifotec cũng đã tổ chức hàng năm Hội thi Sáng tạo KHKT toàn quốc.

Thông qua các giải thưởng này chúng tôi mong rằng đây cũng là một trong những hình thức tuyên truyền, động viên, thu hút các bạn trẻ say mê, quan tâm nhiều hơn đến việc nghiên cứu khoa học, công nghệ.

Một nhà khoa học đang sống và làm tại Úc hỏi: Qua các thông tin truyền thông trên báo chí đưa tin về sự kiện này (ngày KH&CN VN) tôi thấy có khá nhiều hoạt động chào mừng. Tuy nhiên, nếu tôi nhớ không nhầm thì không thấy có hoạt động gì hướng đến các nhà khoa học Việt kiều trên thế giới nhằm động viên họ về nước đóng góp công sức cho ngành Khoa học nước nhà.Theo ông, việc này có cần thiết hay không?

Trong những năm qua, các nhà khoa học Việt kiều trên thế giới đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển KHCN nước nhà được nhà nước cũng như dư luận xã hội đánh giá cao. Vì vậy, việc tôn vinh những đóng góp của các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài là cần thiết.Tuy nhiên, trong các văn bản chính thức về việc tổ chức các sự kiện nhân ngày KH&CN Việt Nam đúng là chưa đề cập đến những hoạt động chuyên biệt hướng đến các nhà khoa học Việt kiều trên thế giới. Tôi cho rằng vì đây là ngày KHCN của cả giới khoa học Việt Nam vì vậy chỉ đề cập đến những hoạt động chung mà không kể đến những sự kiện mang tính chất riêng biệt. Nhưng, tôi tin rằng trong các hội thảo, hội nghị KHCN trong dịp này chắc chắn sẽ có sự hiện diện các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài hoặc chính tác giả của các công trình này.

Với trách nhiệm của một nhà quản lý đồng thời cũng là nhà khoa học, ông đánh giá như thế nào về những đóng góp của khoa học và công nghệ trong khoảng 10 năm gần đây? (Nông Khắc Ý, báo Khoa học Đồng Nai).

Theo tôi KH&CN ngày càng đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của đất nước, đặc biệt trong 10 năm gần đây. Nhìn lại sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế xã hội ta đều thấy dấu ấn của KHCN.Trong lĩnh vực nông nghiệp nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật Việt Nam đã vươn lên đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, hạt điều.Đứng đầu thế giới về xuất khẩu hạt tiêu. Đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu thủy sản…

Trong lĩnh vực y tế chúng ta đã sản xuất thành công nhiều loại văc xin phòng bệnh, nhiều kỹ thuật tiến bộ đã được áp dụng và mang lại thành công trong ghép tạng người như ghép thận, gan, tim…

Trong lĩnh vực cơ khí, chúng ta đã làm chủ được những công nghệ tiên tiến để có thể chế tạo được từ những chiếc tàu lớn hàng trăm ngàn tấn đến những sản phẩm đòi hỏi sự tinh vi như các vệ tinh siêu nhỏ Pico – Dragon…

Trong công nghệ thông tin đã có nhiều tiến bộ vượt bậc trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong lĩnh vực quản lý xã hội, dự báo, tự động hóa sản xuất.

Trước đây khi xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình chúng ta cần tới hàng vạn người trong đó có hàng ngàn chuyên gia nước ngoài. Ngày nay khi xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La là công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á các nhà thầu Việt Nam đã tự đảm nhiệm và xây dựng thành công. Trong quá trình thực hiện công trình này nhiều công nghệ, giải pháp kỹ thuật mới đã được các đơn vị thiết kế thi công Việt Nam làm chủ và ứng dụng thành công.KH&CN Việt Nam đã góp phần quan trọng đưa công trình vào vận hành sớm hơn 2 năm so với dự kiến, tận dụng nguyên vật liệu trong nước, hạ giá thành sản phẩm làm lợi cho đất nước trên 24.000 tỉ đồng.

Một vài ví dụ trên phần nào có thể minh chứng cho sự đóng góp của KHCN vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước thời gian qua. Có ý kiến đánh giá rằng trong thời gian qua KHCN đóng góp khoảng 30% vào sự tăng trưởng GDP của đất nước.

Không thể phủ nhận, thời gian gần đây khoa học công nghệ đã có những bước tiến đáng kể, đạt được những kết quả ấn tượng trên mọi lĩnh vực như: Nông nghiệp, Y tế, CNTT…tuy nhiên người dân dường như vẫn chưa nhận thức rõ được vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển KT-XH? Bằng chứng là rất nhiều kết quả nghiên cứu của nhà khoa học mang lại lợi ích hàng nghìn tỷ đồng cho đất nước nhưng thông tin về những kết quả này độ “phủ sóng” không rộng bằng các thông tin như người dân chế tạo máy bay, nông dân sáng chế ra thuốc trừ sâu có thể uống được…Theo ông lí do là tại sao? (PV báo Khoa học đời sống hỏi)

Tôi nghĩ rằng câu hỏi này để các nhà báo tự trả lời sẽ chính xác hơn. Tuy nhiên theo tôi việc những công nhân, nông dân sáng chế, phát minh cũng không phải là hiện tượng riêng biệt ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới cũng có những trường hợp như vậy. Thậm chí có những người rất nổi tiếng như nhà bác học Tsiolkovski – cha đẻ ngành vũ trụ của Liên Xô (cũ), Edison – nhà sáng chế vĩ đại người Mỹ cũng là những người tự học làm nên.

Vấn đề là không chỉ dừng ở mức đưa ra những thông tin giật gân lôi cuốn độc giả mà phải trân trọng, tạo điều kiện để những người công nhân, nông dân đó hoàn thiện những sáng chế, phát minh của mình. Thế mạnh của những người này là sự đam mê nghiên cứu, kinh nghiệm thực tế và khả năng bẩm sinh nhưng họ thường thiếu những cơ sở lý thuyết, cơ sở khoa học để giải quyết thấu đáo những vấn đề đặt ra để sản phẩm nghiên cứu của họ hoàn thiện.

Vì vậy, vấn đề tiếp theo là phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các chuyên gia, nhà khoa học am hiểu sâu về lĩnh vực này với những nhà sáng chế nông dân trong quá trình hoàn thiện phát minh, sáng chế của họ.Phải chăng, đây là trách nhiệm của nhà nước và cũng là của xã hội!

Nhiều nhà khoa học chia sẻ, với mức lương ít ỏi của họ chỉ đủ để duy trì cuộc sống hàng ngày đã rất khó khăn nói gì đến an tâm nghiên cứu khoa học. Được biết, LHH có nhiệm vụ tạo điều kiện nâng cao trình độ nghề nghiệp, góp phần cải thiện đời sống tinh thần, vật chất của những người làm công tác khoa học và công nghệ.Vậy, ngay tại LHH công tác này được thực hiện đến đâu thưa ông? (Đại An, tp.HCM).

Trước hết tôi cũng xin chia sẻ với ý kiến của bạn. Tuy nhiên để giải quyết vấn đề này theo tôi phải nhìn từ hai phía. Về phía Nhà nước thì phải tạo điều kiện để KH&CN phát triển, tạo điều kiện để những người làm khoa học, công nghệ sống được bằng kết quả nghiên cứu của mình.

Về vấn đề này phần nào đã được giải tỏa qua những quy định mới của Luật KH&CN sửa đổi.

Mặt khác, những người làm công tác khoa học chúng ta cũng phải tự đánh giá mình và tự xác định cho mình hướng phát triển phù hợp để có thể vừa sống tốt, vừa đóng góp tích cực cho sự phát triển.

Về phía Liên hiệp hội Việt Nam chúng tôi cũng rất quan tâm đến việc đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức KHCN:

- Các hội thành viên thuộc Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam đã thành lập hoặc bảo trợ gần chục trường đại học, cao đẳng và trung học dạy nghề như: Đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội; Đại học Phương Đông…; Một số trường đã có uy tín trong xã hội. Các trường này đã đào tạo hàng vạn sinh viên thuộc các ngành nghề khác nhau, nhất là ngành quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin.

- Các hội thành viên và các tổ chức KH&CN trực thuộc đã liên kết với các trường đại học trong và ngoài nước, các cơ sở đào tạo nước ngoài tổ chức hàng vạn khóa đào tạo ngắn hạn về quản trị kinh doanh, quản trị dự án, tài chính, công nghệ thông tin… để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Riêng Hội tin học Việt Nam đã có 100 trung tâm đào tạo tin học trình độ A, B, C.

Ngoài ra, Liên hiệp hội Việt Nam cũng có hơn 200 tờ báo, tạp chí chuyên ngành đăng tải, phổ biến kiến thức mới, tiên tiến trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, sức khỏe, an toàn lao động, kỹ thuật canh tác… và công bố các công trình nghiên cứu khoa học, các luận án tiến sĩ… cũng góp phần cung cấp thông tin nâng cao nhận thức của cộng đồng nói chung cũng như những người làm công tác khoa học công nghệ.

Tôi cho rằng, nếu Quốc hội ban hành Luật Hành nghề chuyên nghiệp trong đó quy định những người hành nghề chuyên nghiệp phải thường xuyên bổ túc, nâng cao trình độ nghề nghiệp và giao trách nhiệm này cho các hội nghề nghiệp thì tác dụng nâng cao trình độ nghề nghiệp của đội ngũ KHCN Việt Nam sẽ được hiệu quả hơn nhiều.

Tôi muốn hỏi hiện nay hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của LHH hiện nay ra sao? Thời gian qua LHH đã có những đóng góp gì cho sự phát triển KT-XH thông qua hoạt động này? Để làm tốt công tác phản biện, theo ông cần phải sự phối hợp của những đơn vị nào hay chỉ LHH là đủ? (Nguyễn Mạnh Hùng, Hà Nội).

Tư vấn phản biện và giám định xã hội là một trong những chức năng chính trong hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Hơn 10 năm qua, Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên đã tư vấn phản biện, đóng góp ý kiến cho hàng trăm văn kiện, đề án của các cơ quan Đảng, Nhà nước liên quan đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, như các dự thảo báo cáo trình Đại hội Đảng; cương lĩnh chính trị 1991 – 2013; Hiến pháp 1992 sửa đổi; các dự thảo Luật, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; Các Dự án thủy điện Sơn La, Sông Tranh 2, Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, khai thác Bauxite Tây Nguyên, xây dựng nhà máy lọc dầu; phương hướng phát triển công nghiệp hóa dầu, đề án phát triển ngành cơ khí; phòng chống dịch cúm gia cầm, dự án phát triển một triệu hecta lúa lai…

Những ý kiến đóng góp của Liên hiệp hội Việt Nam thông qua hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội đã được Nhà nước trân trọng và đánh giá cao.Nhiều ý kiến đã được chấp thuận và làm lợi cho nhà nước hàng ngàn tỷ đồng.

Ví dụ như Dự án Đường sắt cao tốc Bắc Nam với tổng số vốn đầu tư dự kiến lên tới 56 tỉ đô la đã được Liên hiệp hội Việt Nam đóng góp ý kiến phân tích vê công nghệ, hiệu quả kinh tế, xã hội… đã góp phần tích cực vào quyết định để Quốc hội biểu quyết bác bỏ dự án này.

Theo tôi để hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội hiệu quả, rất cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam với các bộ, ban, ngành, các chủ đầu tư và các cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.

PGS TS Trương Vũ Bằng Giang, Chủ nhiệm Khoa Điện tử - Viễn Thông Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Phó Chủ tịch Hội Vô tuyến - Điện tử Việt Nam (REV)

PGS.TS Trương Vũ Bằng Giang

Thưa PGS TS Trương Vũ Bằng Giang. Được biết ông vừa là nhà quản lý vừa là nhà khoa học. Vậy ông có những chia sẻ, đánh giá như thế nào về ngày KH&CN Việt Nam  dưới góc độ của cả nhà quản lý và nhà khoa học, thưa ông? (thanhhadpv@gmail.com)

Theo Điều 7, Luật Khoa học và Công nghệ (Luật KH&CN, số 29/2013/QH13) được thông qua tại Kỳ họp thứ V - Quốc hội khóa XIII, ngày 18/5 hằng năm (từ năm 2014) được lấy làm ngày KH&CN Việt Nam.

Ngày KH&CN được tổ chức sẽ góp phần tôn vinh, biểu dương đội ngũ những người làm công tác KH&CN, tuyên truyền rộng rãi các thành tựu KH&CN, nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của KH&CN. Mặt khác, cũng góp phần thu hút cộng đồng và toàn xã hội quan tâm hơn nữa tới các hoạt động KH&CN.

Các hoạt động của ngày KH&CN Việt Nam cũng sẽ cổ vũ và trao ngọn lửa đam mê, lòng nhiệt huyết cho thế hệ trẻ, đặc biệt các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên, là lực lượng nghiên cứu chính, tham gia nghiên cứu khoa học, làm cho hoạt động khoa học nước nhà vươn lên xứng tầm cao mới, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thành công của đất nước. Đội ngũ các nhà khoa học của ĐHQGHN nói chung và của Trường Đại học Công nghệ nói riêng cảm thấy rất vui và tự hào khi ngày KH&CN Việt Nam được cộng đồng quan tâm và được truyền thông rộng rãi.

Theo tôi được biết, tại một số nước như Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc…họ thường xuyên tổ chức các ngày khoa học hay tuần lễ khoa học nhằm mục đích truyền ngọn lửa đam mê khoa học cho giới trẻ, nhất là các em học sinh, sinh viên. Ở Việt Nam, năm ngoái Bộ Khoa học (lần đầu tiên) đã tổ chức tuần lễ truyền thông khoa học tại Học viện báo chí tuyên truyền. Ông đánh giá thế nào về hoạt động này?

Hầu như các nước phát triển như Đức, Pháp, Mỹ, Nhật,… đều tổ chức các ngày khoa học, tuần khoa học quốc gia, đó là còn không kể đến việc các trường đại học, các viện nghiên cứu ở khắp các quốc gia đó còn tổ chức những ngày khoa học đặc biệt dành riêng cho các lĩnh vực khoa học cần được sự quảng bá đặc biệt, thu hút sự quan tâm đặc biệt của người dân và đặc biệt là giới trẻ, khuyến khích họ theo học và làm việc trong các ngành khoa học đặc biệt đó v.v…

Hồi tôi còn  làm nghiên cứu sinh tại Trung tâm Hàng không Vũ trụ Đức (DLR), hằng năm, Trung tâm đều tổ chức các ngày mở cửa (open day) để đón người dân khắp mọi nơi quan tâm đến thăm quan, chứng kiến các thành tựu KH&CN mà các nhà khoa học thuộc Trung tâm đã tạo ra trong lĩnh vực Hàng không và Vũ trụ. Mọi người dân quan tâm đều được tìm hiểu, giải thích, trao đổi và góp ý. Đó là một hoạt động mang nhiều ý nghĩa, một mặt thúc đẩy trao đổi học thuật, sáng tạo KH&CN, thúc đẩy hợp tác phát triển, mặt khác cũng làm cho các sáng tạo công nghệ đến gần hơn với người dân, đặc biệt là giới trẻ.

Việc tổ chức truyền thông KH&CN năm 2013 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền ngày 26-27/9/2013 là một hoạt động khởi đầu để thúc đẩy có ngày KH&CN Việt Nam như năm nay. Vì thế  đó là một sự kiện được đánh giá cao. Bài học rút ra từ việc tổ chức sự kiện năm trước có thể giúp cho việc tổ chức ngày KH&CN Việt Nam năm 2014 thành công và có hiệu quả hơn.

Chào mừng ngày KH&CN Việt Nam 18/5, lần đầu tiên các viện nghiên cứu, các trường đại học, các phòng thí nghiệm trọng điểm sẽ đồng loạt mở cửa đón khách tham quan, để mọi người dân, đặc biệt là học sinh- sinh viên có thể tiếp cận và hiểu hơn về công việc của những người làm khoa học….Về phía trường Đại học công nghệ sẽ có những hoạt động thiết thực, cụ thể nào để hưởng ứng?

ĐHQGHN của chúng tôi đã ban hành “Kế hoạch tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày KH&CN Việt Nam (số 824/KH-ĐHQGHN, ngày 17/03/2014). Trường Đại học Công nghệ là một đơn vị thành viên của ĐHQGHN sẽ tham gia thực hiện kế hoạch này. Một số hoạt động chính được tổ chức như sau:

-Tổ chức Hội nghị tổng kết về Xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh ở ĐHQGHN. Hội nghị cũng sẽ khen thưởng và tôn vinh các nhóm nghiên cứu KH&CN tiêu biểu ĐHQGHN năm 2014.

- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh sẽ tổ chức Festival KH&CN trẻ, ở đó các nhà khoa học trẻ sẽ giới thiệu các sản phẩm sáng tạo thanh niên và các câu lạc bộ khoa học. - Tổ chức mở cửa phòng thí nghiệm nghiên cứu trong toàn các đơn vị trực thuộc để đón đông đảo sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh và cộng đồng đến tham quan, giao lưu vào ngày thứ Bảy, 17/5/2014.

- Tổ chức tọa đàm KH&CN phục vụ phát triển KT- XH: tiềm năng, cơ hội và thách thức. Đây là trao đổi giữa các nhà khoa học trẻ về tiềm năng, cơ hội và thách thức trong các nghiên cứu khoa học, công nghệ và chuyển giao tri thức phục vụ việc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân.

Nhân ngày KH&CN VN đầu tiên được tổ chức trong cả nước, Trường ĐHCN sẽ tổ chức trưng bày tại tiền sảnh tòa nhà chính các sản phẩm từ hoạt động nghiên cứu, phát triển (R&D) và đào tạo cho người học ở các bậc đào tạo và cũng sẵn sàng mở rộng cửa tiếp đón các đơn vị và cá nhân từ ngoài trường.

Hưởng ứng ngày KH&CN, trong tuần vừa qua “Hội nghị Sinh viên nghiên cứu Khoa học cấp trường” đã được tổ chức theo phương thức đổi mới. Các nhóm sinh viên đã trình bày các công trình, các sản phẩm khoa học do nhóm mình nghiên cứu, sáng tạo ra trước sinh viên và giảng viên toàn trường. Sự kiện này một mặt khích lệ và thúc đẩy các hoạt động tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo khoa học của sinh viên, giúp sinh viên trang bị các kỹ năng và kiến thức cần thiết trong hoạt động sáng tạo khoa học và công nghệ, mặt khác cũng góp phần khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu, sáng tạo cho thế hệ trẻ tại Trường.

Trân trọng kính mời các bạn trẻ, các tổ chức và cá nhân quan quan tâm đến tham gia các hoạt động nói trên cùng chúng tôi vào ngày 17/5 /2014 tới đây.

Để sự kiện ngày khoa học công nghệ Việt Nam 18/5 thực sự trở thành “điểm nhấn” trong  tất cả các hoạt động của toàn ngành KH&CN năm 2014 và những năm tiếp theo, theo ông, ngoài những hoạt động chào mừng như báo chí đã đưa tin thì sự kiện này có cần bổ sung thêm các hoạt động khác cho hiệu quả hay không?

Nếu chỉ tổ chức các lễ mít tinh kỷ niệm và chào mừng không thôi thì chắc chắn là sẽ thiếu đi cái ý nghĩa và mục tiêu trọng đại của sự kiện, đó là nhằm làm cho người dân và nhất là tầng lớp thanh thiếu niên, thế hệ trẻ quan tâm tới khoa học, hưởng ứng, ủng hộ các hoạt động khoa học, thu hút họ vào học tập, đào tạo, nghiên cứu, phát triển và làm việc trong các lĩnh vực khoa học. Từ đó khơi dậy niềm đam mê sáng tạo, thúc đẩy gắn kết chặt chẽ khoa học với mọi hoạt động trong đời sống xã hội. Như vậy, ta rất cần tổ chức nhiều hình thức hoạt động, nhiều sự kiện đa dạng, phong phú và thiết thực, đặc biệt là những sinh hoạt học thuật tại các cơ quan khoa học, các trường đại học, mở rộng có sự tham gia rộng rãi  của công chúng, đặc biệt là giới trẻ.

Xin ông cho biết những nét chính về Trường Đại học Công nghệ, đặc biệt là hoạt động nghiên cứu khoa học của trường hiện nay đang diễn ra như thế nào thưa ông?

Trường ĐHCN là một đơn vị thành viên của ĐHQGHN đang được xây dựng và phát triển thành trường đại học nghiên cứu. Trường hiện có bốn khoa gồm các Khoa Công nghệ Thông tin, Điện tử Viễn thông, Vật lý Kỹ thuật & Công nghệ Nano và Cơ học Kỹ thuật & Tự động hóa. Nhà trường thực hiện sứ mệnh đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu phát triển, nghiên cứu ứng dụng trên các lĩnh vực mũi nhọn trong các ngành KH&CN nêu trên. Hiện tại Trường ĐHCN có đội ngũ giảng viên cơ hữu với trên 74% có học vị TS và trên 25% có học hàm PGS, GS cùng với một số lượng không nhỏ các giảng viên kiêm nhiệm gồm nhiều nhà khoa học là các GS, PGS, TSKH và TS đang có hoạt động nghiên cứu tích cực tại các viện nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cùng một số viện nghiên cứu chuyên ngành từ các bộ, ngành khác.

Hiện tại, Nhà trường đang tập trung mọi nguồn lực nhằm thúc đẩy, phát triển khoa học công nghệ theo các định hướng sau đây:

-Đầu tư tập trung, tích hợp đào tạo và nghiên cứu khoa học: tập trung mọi nguồn lực để phát triển một số lĩnh vực mũi nhọn, các hướng nghiên cứu ưu tiên nhằm sớm đạt trình độ quốc tế.

-Định hướng Kỹ nghệ và Công nghệ (Engineering & Technology) đạt chuẩn quốc tế: định hướng kỹ nghệ và công nghệ được thể hiện rất rõ trong tất cả các hoạt động của nhà trường. Đây là thế mạnh của nhà trường, tạo nên sự đặc thù và thuận lợi cho trường trong triển khai các hoạt động nghiên cứu và phát triển các sản phẩm công nghệ cao.

-Định hướng ưu tiên các hoạt động khoa học công nghệ liên ngành: xu hướng liên kết giữa các ngành trong lĩnh vực KH&CN nhằm giải quyết các bài toán lớn, phức tạp đang là xu hướng tất yếu trên thế giới.

- Định hướng sản phẩm đầu ra – ưu tiên phát triển Công nghệ lõi: các nghiên cứu của nhà trường phải nhắm tới hướng tạo ra sản phẩm trình độ cao, thể hiện thông qua các sáng chế, giải pháp hữu ích có liên quan đến các công nghệ lõi.  Các triển khai bám sát thực tiễn ứng dụng, giải quyết các bài toán lớn trong kinh tế – xã hội, công nghiệp, an ninh – quốc phòng,… đảm bảo tính cạnh tranh về sản phẩm dựa trên việc làm chủ công nghệ lõi.

- Liên kết Trường đại học – Viện nghiên cứu – Doanh nghiệp là yếu tố sống còn trong hoạt động KH&CN: được bắt đầu từ năm 2009, trong những năm qua Trường Đại học Công nghệ đã triển khai nhiều hoạt động hợp tác với các Viện nghiên cứu, Doanh nghiệp và thu được nhiều thành quả quan trọng.

Chào ông Giang! Tôi xin hỏi ông một câu hỏi như thế này, mặc dù hiện nay nhờ các chính sách của Nhà nước đã có nhiều nhà khoa học Việt kiều về nước làm việc. Tuy nhiên, con số đó là rất nhỏ, thực tế đang có rất nhiều các nhà khoa học trẻ, khoa học Việt kiều không muốn về nước làm việc. Lí do thì đã rõ, phần là do chính sách đãi ngộ còn nhiều bất cập, điều kiện môi trường làm việc chưa phù hợp….Trong khi trách nhiệm kiến thiết, xây dựng đất nước đang đặt lên vai giới trẻ, và cần hơn nữa những cống hiến nhiệt tâm của họ. Đứng ở góc độ vừa là nhà quản lý, vừa là nhà khoa học, theo ông Nhà nước cần phải có những “hành động” cụ thể gì để khắc phục tình trạng “chảy máu chất xám” như hiện nay?

Để phát triển khoa học công nghệ thì trước tiên cần sự đam mê và cống hiến của chính đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu. Ngoài ra các cơ chế chính sách và hỗ trợ từ Nhà nước đóng một vai trò cốt yếu. Theo tôi, Nhà nước nên xem xét một số giải pháp sau đây:

- Thiết lập các quỹ đầu tư mạo hiểm cho nghiên cứu, không đợi các nhà khoa học trẻ đủ “lớn” mới được giao các đề tài, dự án nghiên cứu.

- Xây dựng môi trường học thuật và nghiên cứu thuận lợi. Quan tâm đầu tư để Việt Nam có nhiều trung tâm nghiên cứu xuất sắc, kết hợp đào tạo hiện đại và đồng bộ.

- Kinh phí nghiên cứu khoa học được cấp phải đủ để các nhà khoa học đáp ứng nhu cầu sáng tạo. Những đổi mới về cơ chế tài chính (chẳng hạn cơ chế khoán đến sản phẩm đầu ra, cơ chế hoạt động của các quỹ KH&CN), cơ chế quản lý KH&CN (đơn giản thủ tục đăng ký nghiệm thu theo sản phẩm đầu ra) sẽ góp phần tháo bỏ các nút thắt hiện nay trong nghiên cứu khoa học.

- Nhà nước cần quan tâm để có giải pháp phát triển các nhóm nghiên cứu trình độ cao, tương đương với các nước tiên tiến, có khả năng nghiên cứu các vấn đề khoa học công nghệ mang tính thời đại cũng như các vấn đề khoa học công nghệ trọng điểm của đất nước, tạo ra nhiều sản phẩm quốc gia.

- Ngoài ra, cũng cần quan tâm đến cả khả năng thu hút các nhà khoa học xuất sắc ở nước ngoài đến lãnh đạo các nhóm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm nhằm triển khai những chương trình nghiên cứu trọng điểm.

Như chúng ta đã biết, Luật Khoa học Công nghệ (sửa đổi) được ban hành và chính thức có hiệu lực từ 1/1/2014 đã “cởi” được nhiều “nút thắt” quan trong trong đó đặc biệt phải kể đến là cơ chế tài chính và chế độ trọng dụng nhân tài. Được biết, Đại công nghệ Hà Nội là một trong những trường đầu ngành đào tạo cán bộ khoa học giỏi cho đất nước, có nhiều nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế….chắc chắn trong quá trình hoạt động ít nhiều đã trải qua những vướng mắc về các cơ chế chính sách nói trên. Nay Luật đã được thông qua, vậy xin hỏi những vướng mắc khó khăn trên đã được tháo gỡ như thế nào đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo? (Võ Ngọc Ánh, Quảng Nam)

Để tháo gỡ những vướng mắc và “cởi” được nhiều “nút thắt”, Luật KHCN 2013  đã được ban hành với cơ chế khoán chi đối với các nhiệm vụ khoa học, tạo thế chủ động và tự quyết cho nhà khoa học. Luật đã tìm được sự dung hòa vừa thể hiện được tính linh hoạt của các nhà khoa học trong việc thực hiện chi tiêu vừa góp phần tăng khả năng kiểm soát của nhà quản lý tài chính trong việc bảo đảm chi đúng mục đích và tiết kiệm.Phương thức khoán cũng góp phần giảm bớt đi những thủ tục hành chính rườm rà, tạo môi trường thuận lợi nhất cho các nhà khoa học dành nhiều thời gian cho nghiên cứu. Đây có thể xem là một bước chuyển có tính đột phá để hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ phát triển có hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, qua thực tế cũng cần có những chế tài phù hợp, sao cho có thể phát huy những điểm mạnh, hỗ trợ các nhà nghiên cứu chân chính, nhưng cũng phải ngăn ngừa được những nghiên cứu mang tính “lách luật” mà tác giả có thể lợi dụng cơ chế “thoáng” để thực hiện những việc làm phi khoa học,…Cần thiết lập các hội đồng khoa học, hội đồng thẩm định kinh phí có đủ năng lực và làm việc với tinh thần trách nhiệm cao. Thông qua các hội đồng này có thể kiểm soát và đảm bảo sản phẩm đầu ra phù hợp với chi phí.

ĐHQGHN đã chỉ đạo nhất quán cần gắn kết chặt chẽ hoạt động nghiên cứu với hoạt động đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học, nhất là đào tạo tiến sĩ. Tất cả các đề tài với kinh phí được cấp trên 100 triệu đồng đều phải dành một tỷ lệ kinh phí nhất định chi cho nhân lực là các nghiên cứu sinh, các học viên cao học hay sinh viên thuộc nhóm nghiên cứu của giảng viên làm chủ trì đề tài. Đây là một kinh nghiệm tốt cần khai thác trong việc tổ chức các đề tài nghiên cứu.Một vấn đề rất quan trọng cần được đề cập ở đây là giải pháp phát triển hoạt động nghiên cứu tại các trường đại học.

Chúng ta đều nhận thức sâu sắc rằng, chức năng nhiệm vụ của các trường đại học theo chuẩn mực quốc tế phải là phát triển và truyền thụ tri thức đỉnh cao về khoa học. Điều đó có nghĩa các trường đại học phải là nơi nghiên cứu và phát hiện, phát triển các hiểu biết mới về các thực thể tự nhiên và xã hội nói chung, tức là trước hết chúng phải thực hiện những nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu về khoa học cơ bản. Các nghiên cứu ứng dụng, phát triển sản phẩm KH&CN tại các trường đại học cần được khuyến khích nhưng không nên coi là những nghiên cứu có tính bắt buộc.

Từ hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản, các tri thức, hiểu biết mới thu được cũng như các phương pháp mới phát triển được sẽ được truyền tải trực tiếp đến các thế hệ khoa học kế tục. Nghiên cứu khoa học cơ bản cũng là các hoạt động khuyến khích và đảm bảo tự do hàn lâm, tự do học thuật cho các nhà khoa học, các giảng viên mà từ đó niềm đam mê tìm tòi phát hiện và sáng tạo cái mới được nuôi dưỡng, khuyến khích phát triển. Nhà nước vì thế cần quan tâm đầu tư nhiều hơn cho các nghiên cứu khoa học cơ bản tại các trường đại học.

Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách đầu tư ưu tiên, khuyến khích để thu hút được nhiều học sinh giỏi, có năng khiếu để đào tạo thành lực lượng cán bộ khoa học kế cận cho các ngành khoa học cơ bản như: Toán học, Vật lý, Hóa học và Sinh học cũng như các ngành khoa học tự nhiên khác và đặc biệt là các ngành khoa học nhân văn như: Lịch sử, Văn học, Ngôn ngữ, Triết học, Kinh tế học. Đây là những vấn đề cốt tử đối với việc phát triển khoa học nước nhà, nếu chậm trễ chúng ta có thể tiếp tục tụt hậu không chỉ so với thế giới mà ngay cả trong khu vực.

Ngoài những chính sách của Nhà nước, bản thân Trường Đại học Công nghệ có cơ chế khuyến khích nào để thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài KH&CN hay không? Trường ông có Quỹ dành riêng cho phát triển KH&CN không? Nếu có thì Quỹ đó được sử dụng như thế nào? Ông có nghĩ rằng mỗi trường đại học đều nên có Quỹ dành riêng cho phát triển khoa học hay không?

Trong quá trình xây dựng và phát triển, Trường ĐHCN đã thực thi được các chính sách mạnh mẽ trong việc thu hút trọng dụng các tài năng trẻ. Trong những năm đầu thành lập khoa và trường, Nhà trường đã triển khai thực hiện chính sách tài trợ “thực tập sinh”, tạo điều kiện cho các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi trở lên ở lại trường (hoặc thu hút cả các sinh viên tốt nghiệp loại xuất sắc ở các trường khác về trường) tham gia làm việc tại các phòng thí nghiệm (PTN), thực hiện các đề tài nghiên cứu tại các nhóm nghiên cứu của các giảng viên có kinh nghiệm đồng thời được hỗ trợ học phí để theo học chương trình đào tạo sau đại học để nâng cao trình độ. Nhiều sinh viên trong thời gian qua  đã nhận được các học bổng đào tạo sau đại học để đến học tập và làm việc, nghiên cứu tại các PTN của các nhà khoa học tại các trường, viện đối tác quốc tế của Nhà trường.

Về sau, Nhà trường đã triển khai một hình thức khác là tuyển dụng trực tiếp các sinh viên đạt danh hiệu Thủ khoa tốt nghiệp hằng năm, ký hợp đồng đào tạo “giảng viên tạo nguồn” cho các đối tượng sinh viên tốt nghiệp loại giỏi trở lên giữ họ ở lại trường với chức năng nhiệm vụ như các thực tập sinh trước đây. Các “giảng viên tạo nguồn” sẽ tham gia học trong các chương trình đào tạo sau đại học.

Khi có điều kiện họ được gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Một số giảng viên của Nhà trường đã sử dụng một phần kinh phí của các đề tài nghiên cứu do họ chủ trì chi trả cho các cán bộ tạo nguồn này, góp phần tạo môi trường tốt cho họ vừa được đảm bảo đời sống ổn định, vừa học tâp, vừa tham gia rèn luyện kỹ năng nghiên cứu.

Nhà trường cũng có những chính sách ưu tiên và khuyến khích phù hợp để thu hút các tiến sĩ mới tốt nghiệp ở nước ngoài về làm việc, cố gắng tạo dựng môi trường đào tạo chuẩn mực chất lượng cao, nghiên cứu tích cực, hợp tác trao đổi trong và ngoài nước rộng mở, thân thiện, năng động và hiệu quả.

Các tiến sĩ trẻ mới về trường được tạo điều kiện ưu tiên ngay năm đầu tiên, được cấp kinh phí thực hiện một đề tài cấp trường để tiếp tục một số nội dung nghiên cứu của mình từ nước ngoài, vừa đảm bảo điều kiện làm việc ban đầu của họ, giữ nhịp độ và tính liên tục cho hoạt động nghiên cứu, vừa tạo điều kiện để họ tiếp cận và hòa nhập tốt vào môi trường nghiên cứu, giảng dạy và các hoạt động khác của Nhà trường.

Một chính sách khuyến khích khác đối với các hoạt động nghiên cứu là tổ chức xét và trao Giải thưởng KH&CN hằng năm và định kỳ của Trường ĐHCN cho các công trình, sản phẩm nghiên cứu KH&CN hay giải thưởng chỉ số ảnh hưởng h-index cao của giảng viên,…

Trường ĐHCN với tư cách một trường đại học thành viên đang được thụ hưởng một số tiện ích của Quỹ Phát triển KHCN của ĐHQGHN là một quỹ đang vận hành với hiệu quả và tác dụng tốt, tận dụng cơ chế hoạt động đặc thù và tự chủ cao của ĐHQGHN. Theo chúng tôi, các trường đại học khác cũng nên lập và khai thác tốt Quỹ Phát triển KH&CN để động viên, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu chất lượng cao.

Theo ông, làm thế nào để sinh viên đặc biệt là sinh viên trường Đại học Công nghệ đam mê nghiên cứu khoa học, xem khoa học công nghệ là động lực then chốt phát triển và khẳng định vai trò của giới trẻ trong đời sống xã hội?

Khi sinh viên đã chọn theo học một ngành học nhất định tại một trường đại học nào đó thì họ cũng đã thể hiện mong muốn phát triển của bản thân theo chuyên môn của ngành học đó.

Những sinh viên có đam mê nghiên cứu sẽ chuyên tâm vào việc phát hiện những cái mới, sáng tạo những sản phẩm mà con người và xã hội cần để góp phần phát triển các tri thức mới, phát triển những hiểu biết sâu sắc hơn của con người về các thực thể tự nhiên và xã hội là đối tượng nghiên cứu của khoa học, hay góp phần phát triển các sáng chế, thiết kế và chế tạo các vật liệu linh kiện, các quy trình mới, các công nghệ mới đáp ứng nhu cầu tăng năng suất sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.

Như vậy, việc quảng bá sứ mệnh, tầm nhìn và chiến lược phát triển của Nhà trường tới những người học tương lai (sinh viên hay học viên cao học, nghiên cứu sinh) là vô cùng quan trọng. Trường ĐHCN luôn cố gắng làm tốt việc này.

Khi sinh viên đến trường, các cuộc đối thoại với sinh viên mới về phương pháp học tập nghiên cứu, về triết lý đào tạo của Nhà trường có tác dụng rất tốt đối với họ, giúp họ sớm vượt qua được các mặc cảm, nhanh chóng hòa nhập với môi trường mới và tự tin, say mê tập trung vào học tập. The University of Engineering and Technology – Where your Creativity grows” - Trường ĐHCN – Nơi luôi lớn Chí Sáng tạo của bạn đó là khẩu hiệu hành động của Trường ĐHCN.

Thông qua các hoạt động quản lý và sinh hoạt chuyên môn của Nhà trường, tư tưởng tích hợp hoạt động nghiên cứu vào quá trình đào tạo phải được thiết kế chuẩn xác, quán triệt tới toàn thể đội ngũ giảng viên và thực hiện một cách nhất quán trong mọi công đoạn của quá trình đào tạo.

Bài giảng của giảng viên ngoài việc cung cấp các kiến thức cơ bản, cơ sở của môn học còn cần chỉ rõ cho sinh viên các kiến thức đó được ứng dụng để phát triển một vật liệu, một thiết bị, một chức năng của thiết bị, một quy trình sản xuất, một công nghệ hoàn chỉnh như thế nào, và cũng cần hướng dẫn cho sinh viên tác phong tự lập trong tìm hiểu và lập luận phát hiện các tri thức mới.

Từ đó, sinh viên có thể hoàn thiện hiểu biết của mình, tăng cường phong thái học tập tích cực chủ động. Đó là những điều mà trường chúng tôi đã làm được, đang cố gắng làm tốt hơn, từng bước giúp sinh viên cảm thấy hứng thú hơn, say mê hơn và tích cực hơn trong việc thực hiện ước mơ, hoài bão của các em khi các em đăng ký dự thi vào trường.

Trong quá trình xây dựng và phát triển, Trường ĐHCN đã thực thi được các chính sách mạnh mẽ trong việc thu hút trọng dụng các tài năng trẻ.

Chào mừng ngày Khoa học công nghệ Việt Nam, ông có gì muốn nhắn nhủ với thế hệ trẻ Việt Nam nhân sự kiện này?

Ngày KH&CN là cho chính thế hệ trẻ, những người sẽ thực hiện các kế hoạch chiến lược phát triển cho tổ chức mình trong tương lai theo tầm nhìn của chính tổ chức.

Bác Hồ đã dạy: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân…”, do vậy, KH&CN không phải là cái gì đó quá cao siêu, xa vời mà phải rất gần với cuộc sống, có tác động tích cực đến mọi hoạt động của đời sống xã hội.

Với các sinh viên các ngành công nghệ đang ngồi trên ghế nhà trường, các bạn hãy đến làm việc tại các phòng thí nghiệm của khoa, của trường mình, xin tham gia các nhóm nghiên cứu của các Thầy, các Cô giáo của mình càng sớm càng tốt (muộn nhất là từ năm thứ ba trở đi), ở đó tôi tin các bạn sẽ “không thành công cũng thành nhân”.

GS Trần Đình Hòa- PGĐ Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam

Xin chào ông Trần Đình Hòa. Thưa ông, như ông đã biết, ngày KH&CN Việt Nam 18/5 lần đầu tiên được tổ chức trong năm nay. Với tư cách là nhà khoa học trẻ, Ông có có thể chia sẻ những suy nghĩ, cũng như cảm nhận của mình về ngày này? (mtloan2008@gmail.com)

Giáo sư Trần Đình Hòa: Mỗi cơ quan, mỗi ngành đều có một ngày truyền thống riêng. Nhưng ngày truyền thống của một ngành được quy định rõ trong một bộ luật, thống nhất trong toàn quốc mang tầm quốc gia là một niềm vinh dự, là một sự ghi nhận lớn của Đảng và Nhà Nước. Điều này khẳng định một cách mạnh mẽ tầm quan trọng cũng như những đóng góp của KHCN trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc. Bản thân tôi thấy rất vui mừng, phấn khởi và hy vọng trong thời gian tới những sự quan tâm đầu tư của nhà nước cũng như những đóng góp  của KHCN cho thực tế sản xuất sẽ được nâng lên một tầm cao mới.

GS.TS Trần Đình Hòa, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam

Có lẽ cũng như các đơn vị khác, hòa chung không khí phấn khởi của ngày khoa học Việt Nam 18/5, chắc chắn Viện Khoa học thủy lợi cũng có những hoạt động thiết thực để chào mừng phải không ông?

Năm nay, cũng là dịp Viện KHTL Việt Nam kỷ niệm 55 năm ngày thành lập viện. Vì vậy, viện KHTL VN cũng đã có những sự chuẩn bị nhất định cho sự kiện quan trọng này.

- Viện sẽ tổ chức nhiều Hội thảo KHCN để giới thiệu, trình bày các kết quả KHCN của viện tại 3 miền trong cả nước.

- Triển lãm các sản phẩm KHCN nổi bật đã được ứng dụng có hiệu quả trong thực tế sản xuất.

- Trong dịp kỷ niệm ngày KHCN Việt Nam, Viện sẽ tổ chức buổi giao lưu trực tuyến với các nhà KHCN trên cả 3 miền nhằm tổng kết, đánh giá lại những thành tựu và tồn tại trong công tác NCKH và chuyển giao CN và thảo luận về những ý tưởng, hướng phát triển trong giai đoạn mới.

- Ngoài ra, các đơn vị NC trực thuộc viện KHTL VN cũng đã, đang và tiếp tục triển khai các hoạt động sinh hoạt học thuật nhằm nâng cao hiệu quả NCKH và chuyển giao CN; các hoạt động sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể thao,.. để chào mừng ngày kỷ niệm lớn của viện và của ngành.

Thưa ông Hòa, xin ông cho biết những kết quả chính trên mọi mặt mà Viện đã đạt được trong thời gian qua? (Đinh Thị Thắng, Hà Nội)

Viện KHTL Việt Nam có đội ngũ cán bộ CNV gần 1500 người, công tác trong 9 viện chuyên ngành, chuyên đề và 3 trung tâm, 1 phòng nghiên cứu trọng điểm quốc gia chuyên sâu đặt tại cả 3 miền Bắc, Trung và Nam. Trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả quan trọng phục vụ sản xuất và phát triển đất nước. Tôi chỉ xin nêu 1 trong số các kết quả chính như sau:

Hiện nay, Viện có hàng chục  công nghệ được cấp bằng độc quyền sáng chế và rất nhiều công công nghệ đang được chuyển giao vào sản xuất, tạo thế cạnh tranh trên thị trường, làm lợi cho nhà nước hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, góp phần phát triển kinh tế, xã hội. Những nhóm công nghệ nổi bật được Viện chuyển giao vào sản xuất trong những năm qua là: Cửa van tự động cống vùng triều; Công nghệ ngăn sông (đập xà lan, đập trụ đỡ, đập cao su) phục vụ rất hiệu quả cho các công trình chống ngập úng, ứng phó với biến đổi khí hậu đã được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về KHCN năm 2010; Công nghệ Jet - grouting tạo cọc xi măng đất để xử lý nền; Các loại bơm như bơm hút sâu, bơm HT 3600-5, b bơm 4000 m3/h trục ngang, bơm thuỷ luân; Thiết bị vớt rác tự động; Thiết bị thuỷ điện nhỏ; Công nghệ tưới tiết kiệm nước; Công nghệ trồng rừng ngăn mặn bảo vệ đê biển; Công nghệ GIS, SCADA trong công tác quản lý thủy lợi, nông nghiệp; Các phần mềm phục vụ tính toán, khảo sát thiết kế và quản lý điều hành công trình thuỷ lợi...; Công nghệ xác định tổ mối và ẩn họa trong đê, đập bằng thiết bị rađa xuyên đất.

Bên cạnh đó, về lĩnh vực thể chế chính sách, kinh tế và quản lý thủy lợi đã góp phần vào việc cung cấp luận cứ khoa học giúp cơ quan quản lý nhà nước hoạch định chính sách, chiến lược trong quy hoạch, quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ và chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của Việt nam và thông lệ quốc tế. Còn rất nhiều kết quả nghiên cứu, ứng dụng khác của viện mà không có thời gian để có thể liệt kê hết tại đây.

Công trình ngăn mặn giữ ngọt Thảo Long- Thừa Thiên Huế do Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam thiết kế.

Tôi xin hỏi thêm ông Hòa một câu thế này. Được biết năm 2013 ông được được đặc cách trở thành GS ngành Thủy lợi  bởi năng lực làm việc cũng như những cống hiến của ông đối với ngành. Sắp tới, ông có những dự định cụ thể nào để phát triển Viện? (Đinh Thị Thắng, Hà Nội)

Trong giai đoạn sắp tới, tôi sẽ cùng các đồng chí trong ban GĐ Viện, phối hợp với các đơn vị thành viên triển khai thực hiện chiến lược phát triển viện trong giai đoạn 2014 - 2020 và tầm nhìn đến 2050 vừa được Bộ trưởng Bộ NN&PTNT phê duyệt.

Song song với việc triển khai thực hiện các nội dung, nhiệm vụ theo chiến lược, chúng tôi đồng thời triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách do Bộ NN&PTNT giao và bám sát vào thực tế nhằm  kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề bức xúc của sản xuất đặt ra cho các nhà khoa học.

Trong quá trình thực hiện sẽ bám sát đề án tái cơ cấu ngành và chú trọng công tác chú trọng công tác đào tạo nguồn cán bộ KHCN chủ chốt; đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng nhanh và mạnh mẽ kết quả nghiên cứu vào thực tế sản xuất.

Hiện nay Viện ông có gặp khó khăn gì trong hoạt động nghiên cứu và phát triển hay không? Cụ thể như là việc bố trí ngân sách cho các đề tài của Viện chẳng hạn? Đã có trường hợp nào mà khi nào đề tài/dự án của Viện xây dựng mà không thể triển khai do chậm ngân sách không? (Quỳnh Lan, An Giang)

Trong giai đoạn hiện nay, không chỉ có viện KHTL VN mà tất cả các tổ chức NC KH đều gặp khó khăn. Kinh phí bố trí cho các đề tài NC bị giảm sút, tiến độ thực hiện nhiều đề tài NC đã bị ảnh hưởng do tiến độ giải ngân bị chậm. Những khó khăn này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện đề tài, giảm tính thời sự của vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng tôi đã rất cố gắng để triển khai, cho đến nay, chưa có trường hợp nào phải dừng thực hiện đề tài nghiên cứu. Nhìn chung, đây là tình hình khó khăn chung của nhiều tổ chức KHCN chứ không chỉ riêng viện chúng tôi.

Ai cũng biết rằng muốn phát triển được KH-CN phải có con người, nhưng thực tế các đơn vị nghiên cứu hiện nay rất khó để thu hút những người trẻ dấn thân vào con đường khoa học. Nguyên nhân thì có rất nhiều, nhưng cách khắc phục thì mỗi nơi mỗi khác. Riêng Viện Thủy lợi đã có những biện pháp gì để thu hút những người trẻ vào nghiên cứu? (Đoàn Trọng Hùng, Tp.HCM)

Đây là một vấn đề rất lớn đối với đất nước, chứ không phải chỉ riêng đối với ngành Thủy lợi.

Trước khi nói đến việc thu hút nguồn cán bộ trẻ phục vụ cho công tác NCKH, tôi muốn chúng ta phải nhìn nhận lại 1 phần của các nguyên nhân. Chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận một thực tế buồn là ngày càng có ít bạn trẻ dấn thân vào con đường NCKH. Ngay cả những người công tác tại các tổ chức KHCN cũng chưa hẳn là những người đã dấn thân vào công tác NCKH thật sự.

Vì vậy, song song với việc thu hút (và đào tạo) nguồn cán bộ NCKH, chúng ta cũng phải đồng thời tiến hành phân hóa, sàng lọc và sắp xếp, bố trí hợp lý một phần lớn các cán bộ có tố chất và phẩm chất khác một cách hài hòa – đây là một nhiệm vụ không hề dễ dàng nhưng không thể không thực hiện. Trong bối cảnh đó, theo quan điểm của riêng tôi (trong lĩnh vực NC ứng dụng), để thu hút nguồn cán bộ NCKH trẻ, chúng ta phải tạo điều kiện và môi trường làm việc cởi mở, giúp cho các em được tự do phát huy tính sáng tạo của mình trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Ngoài ra, chúng ta phải xây dựng (tạo dựng) niềm đam mê, tâm huyết và trách nhiệm với nghề thông qua việc đẩy mạnh việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tế sản xuất. Chính việc thông qua các hoạt động thực tiễn này vừa giúp các cán bộ KH trẻ nâng cao trình độ chuyên môn (kinh nghiệm và trải nghiệm) vừa tạo dựng cho họ một các nhìn, một sự phấn khích, hứng thú khi chính kết quả NC của mình đã góp phần vào xây dựng và phát triển xã hội.

Nếu chúng ta làm được những điều đó, thì mặc dù chế độ đãi ngộ chưa phải quá cao cũng có thể giữ chân được các nhà KH trẻ. Tất nhiên những người này cần có những mức lương không bị quá thấp để họ có thể toàn tâm toàn ý tập trung vào hoạt động nghiên cứu, đồng thời được xã hội tôn trọng. Nếu để thu nhập của một nhà nghiên cứu trẻ thấp hơn rất nhiều so với thu nhập của một nhân viên bàn giấy tại ngân hàng hay doanh nghiệp tư nhân, khiến họ không được gia đình, bạn bè coi trọng và buộc phải làm thêm quá sức để có thể sinh tồn thì khó mà  hy vọng sản sinh ra được một tầng lớp các nhà khoa nhà khoa học chất lượng cao được. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh thêm: Lương thưởng cũng rất quan trọng, nhưng nhiều khi sự tôn trọng, trân trọng và sự tạo điều kiện, tạo cơ hội một cách rõ ràng minh bạch còn quan trọng hơn đối với thế hệ trẻ.

Nhiều nhà khoa học cho rằng, chính sách mà chúng ta đang áp dụng cho những người làm công tác nghiên cứu khoa học ở đơn vị hành chính sự nghiệp chưa phù hợp với lao động sáng tạo, trong đó có chế độ tuyển dụng, chế độ lương bổng, sắp xếp và bố trí công việc. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào? (Một nhà khoa học Việt kiều hỏi)

Trong thời gian qua, Nhà nước đã cố gắng đưa ra những chính sách nhằm chuẩn hóa công tác cán bộ, tuy nhiên việc tuyển dụng và bố trí cán bộ vẫn còn tồn tại những bất cập nhất định làm lãng phí nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Như trên tôi đã nêu ra, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận là ngay cả những người công tác tại các tổ chức KHCN cũng chưa hẳn là những nhà NCKH thật sự.

Và trong các đơn vị hành chính sự nghiệp điều này càng được thấy rõ. Mặc dù vậy, theo tôi những ai đã theo đuổi công tác NCKH thì nên được áp dụng chính sách như đối với người làm công tác KH, những ai là nhà KH nhưng làm công tác quản lý thì nên được áp dụng chế độ chính sách như đối với cán bộ quản lý. Chỉ duy nhất còn lại đối tượng tham gia cả 2 công việc thì đúng là chúng ta chưa có được 1 chính sách hợp lý. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có các văn bản quy định rõ hơn các tiêu chuẩn lãnh đạo và quản lý, theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa.

Luật KH&CN sửa đổi được ban hành 1/1/ 2014 đã có nhiều đổi mới đột phá với những chính sách thay đổi về cơ chế đầu tư tài chính cũng như ưu đãi, trọng dụng các nhà khoa học trẻ. Theo ông, các chính sách này đã thực sự đáp ứng mong mỏi của các nhà khoa học nước ta hay chưa? Cụ thể tại Viện Thủy Lợi đã triển khai thực hiện Luật như thế nào?

Trong những năm trước đây, như chúng ta đã thấy việc quản lý cũng như hoạt động, triển khai các nhiệm vụ khoa học công nghệ còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nghiên cứu nói chung và sản phẩm khoa học nói riêng.  Đơn cử như khi thực hiện các đề tài khoa học đã xảy ra tình trạng hợp thức hóa các chứng từ giữa người làm khoa học với cơ quan quản lý. Việc phải nghĩ ra các cách thức tạo chứng từ cho hợp lý mất rất nhiều thời gian, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nghiên cứu và tinh thần và thái độ của cán bộ nghiên cứu (nhất là đối với các nhà khoa học chân chính).

Bên cạnh việc “chảy máu chất xám” một thực trạng rất đáng lo ngại hiện nay là “rò rỉ” chất xám của các nhà khoa học. Nhiều nhà khoa học có kinh nghiệm, trí tuệ nhưng không dành hết được thời gian cho việc toàn tâm toàn ý làm khoa học mà lại phải làm những sự vụ không dính dáng gì đến chuyên môn, khoa học. Ngoài ra, nhiều vấn đề bất cập khác như tổ chức đề xuất, xét chọn, tuyển chọn, đánh gia đề tài.

Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách cho KH&CN mang tính đột phá lớn (Nghị quyết 20/NQ-TW, Luật KH&CN 2013, chiến lược KH&CN 2011-2020...). Đây là những cơ sở, động lực lớn để KHCN có thể chuyển mình một cách mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tới. Bản thân tôi cũng hi vọng trong thời gian tới với sự ra đời của luật KHCN sẽ “cởi trói” và tạo động lực lớn cho các nhà KH có được nhiều cơ hội và thuận lợi hơn trong việc đóng góp trí tuệ, sức lực của mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Tuy nhiên, để những chính sách chủ trương đó chuyển hóa thành các kết quả cụ thể, rất cần Chính Phủ và các Bộ Nghành liên quan nhanh chóng kịp thời ban hành các Nghị định, Thông tư, Hướng dẫn triển khai thật sự đi vào cuộc sống. Nghị quyết, Nghị định và luật KHCN là những văn kiện hết sức đúng đắn và đang lấy lại được lòng tin, động lực cho các nhà KH, nhưng để những chính sách nói trên thật sự đi vào cuộc sống không phải là vấn đề đơn giản. Về mặt quản lý nhà nước, nó cần có sự đồng thuận và đồng bộ giữa các Bộ, Ngành liên quan; về triển khai thực hiện rất cần có sự tham gia trực tiếp của các nhà KH vào quá trình ban hành các thông tư, hướng dẫn thực hiện. Nếu không, các chính sách đúng đắn lại bị xa rời thực tiễn. Hiện tại, Viện KH Thủy Lợi Việt Nam đã bám sát vào luật KHCN và mong muốn sớm có những văn bản cụ thể, chi tiết hơn để có cơ sở thực hiện.


Công trình ngăn sông Cái Lớn- Cái Bé (Tỉnh Kiên Giang), do Viện Khoa học thủy lợi Việt Nam lập dự án.

Ông có cho rằng để khuyến khích lòng ham mê khoa học của giới trẻ, để xã hội biết đến nhiều hơn các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học thì công tác truyền thông khoa học là rất quan trọng? Theo đánh giá của ông thì hoạt động này tại VN đã đạt được kết quả như mong muốn chưa?

Đối với vấn đề này, tôi có một số vấn đề cần trao đổi:

Thứ nhất, về suy nghĩ và nhìn nhận đối với NCKH: Thực tế, lớp trẻ ngày nay không có nhiều người theo đuổi các ngành KH&CN. Những tố chất, phẩm chất của một nhà KH phải nên được phát hiện, phát triển, vun đắp và đào tạo, bồi dưỡng ngay từ trong giảng đường đại học thậm chí được nuôi dưỡng từ bậc học sinh. “Giảng dạy và nghiên cứu phải thật sự là anh em sinh đôi”.

Chính vì vậy, các hoạt động quảng bá cho khoa học và hỗ trợ sự phát triển của thế hệ trẻ một cách công bằng phải được tiến hành 1 cách chủ động. Trong khi đó một số các ngành học khác lại được quảng bá một cách quá mức so với ngành KHCN. Nói như thế không có nghĩa xem nhẹ các nghành nghề khác, mà nên có sự hài hòa và hợp lý.

Thứ hai, việc trao đổi thông tin giữa các nhà KH với những đối tượng ứng dụng, sử dụng kết quả NCKH chưa được như kỳ vọng. Việc trao đổi thông tin về kết quả NCKH&CN cũng như việc đưa ra các nhu cầu về sản phẩm KHCN chưa tìm được tiếng nói chung. Vì vậy, chúng ta nên có kênh truyền thông chuyên giới thiệu, tôn vinh các công trình NCKH, phổ cập và quảng bá thành tựu của các tổ chức và cá nhân có đóng góp lớn về KHCN trong thực tế sản xuất; đồng thời cung cấp cho các nhà KH, các tổ chức KHCN những bức xúc, yêu cầu, đòi hỏi của thực tế sản xuất. Có như vậy, hoạt động NCKH&CN mới sớm đi vào cuộc sống và đi vào 1 cách hiệu quả.

Là một trong những nhà khoa học trẻ tuổi, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển KH&CN nước nhà, ông có những chia sẻ gì đối với các bạn trẻ hiện nay?

Tôi chỉ xin tâm sự và chia sẻ đôi điều với các bạn trẻ đó là: Không phải ai cũng có thể làm nhà KH, cũng như không phải ai cũng có thể trở thành nhà doanh nhân giỏi, do đó điều quan trọng là phải tự đánh giá khả năng, năng lực, sở trường của mình để chọn lựa nghề nghiệp cho phù hợp. Ở bất cứ ngành gì, lĩnh vực hay nghề nghiệp gì cũng cần có đam mê, trách nhiệm và tâm huyết với nghề. Trong xã hội, đóng góp lớn hay nhỏ, KH hay sản xuất, lý luận hay thực tiễn đều có giá trị và đều được trân trọng và ghi nhận. Hãy cố gắng, kiên trì nỗ lực hết mình với ngành nghề và tâm huyết với công việc mình đã chọn thì thành công sẽ đến với mình.

Đối với học sinh, sinh viên: Nên xác định chúng ta học để biết, học để sống, học để làm việc quan trọng hơn là học để thi. Đối với các bạn trẻ đã ra công tác: Học cả về trí tuệ và đạo đức, chăm chỉ và nhẫn nại. Học không phải để biết những cái đã có sẵn trong sách vở, tài liệu mà còn phải hình thành tư tưởng, tư duy cho những cái chưa có.

Phải có 1 phông văn hóa đủ rộng để phát triển và suy luận tổng hợp. Phải có tinh thần học thuật, tư duy phản biện và năng lực phán xét. Và điều quan trọng nhất đó là luôn luôn phải quan tâm  rèn luyện bản thân để có đủ sức khỏe gánh vác những điều lớn lao nói trên.

Xin trân trọng cảm ơn các vị khách mời.