Bản in
Tình trạng đề tài cất ngăn kéo sẽ giảm nhờ cơ chế quỹ
Một trong những đổi mới căn bản của chính sách đầu tư tài chính cho khoa học và công nghệ (KH&CN) là quan điểm đa dạng hóa các nguồn đầu tư, trong đó có việc hình thành và phát triển các quỹ phát triển KH&CN. Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia ra đời năm 2008 và mới đây, năm 2011, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia cũng đã được thành lập với quy mô lên tới 1.000 tỷ đồng. Bên cạnh những vui mừng cũng còn không ít băn khoăn của cộng đồng khoa học. Trong chương trình Dân hỏi – Bộ trưởng trả lời ngày 22/9, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân đã giải đáp những vấn đề băn khoăn đó.

- Phóng viên: Xin gửi tới Bộ trưởng băn khoăn của một người làm khoa học. Một giáo sư đã viết, tôi đánh giá rất cao về cơ chế rõ ràng, minh bạch, định lượng của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia. Các điều kiện như phải có bao nhiêu bài báo, bao nhiêu công trình nghiên cứu mới được giải ngân, giải ngân tới đâu sẽ loại bỏ được một số đề án của các tiến sĩ giấy, giáo sư giấy. Tuy nhiên theo tôi còn nhiều vấn đề lớn của đất nước, những vấn đề thiết thực liên quan mật thiết đến nhu cầu của dân sinh thì không có người làm vì sẽ không được các tạp chí quốc tế đăng tải. Những công trình nghiên cứu được đăng tải là những đề án lẻ tẻ của từng nhóm nghiên cứu, không có các cụm công trình khoa học mang tính hệ thống quốc gia. Bộ trưởng nghĩ sao về băn khoăn của vị giáo sư này?

Bộ trưởng Nguyễn Quân: Xin cảm ơn nhà khoa học đã quan tâm và chia sẻ với chúng tôi băn khoăn như vậy. Tuy nhiên, điều này chứng tỏ công tác truyền thông của chúng tôi đến với các nhà khoa học, đối với xã hội còn nhiều bất cập. Tôi xin bổ sung thông tin để các nhà khoa học yên tâm. Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia chỉ là một trong hai quỹ lớn Chính phủ đã cho phép thành lập, nhằm hỗ trợ cho hoạt động KH&CN. Quỹ này tập trung giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ, đặc biệt là các doanh nghiệp KH&CN nâng cao trình độ công nghệ, tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh khi chúng ta hội nhập quốc tế. Cách đây nhiều năm, Chính phủ đã cho phép thành lập Quỹ phát triển KH&CN quốc gia. Đây là quỹ có hệ thống từ trung ương đến địa phương. Trung ương là quỹ phát triển KH&CN quốc gia do Bộ KH&CN trực tiếp điều hành. Ở các bộ, các tỉnh có Quỹ Phát triển KH&CN của Bộ, của tỉnh và các doanh nghiệp cũng được Chính phủ cho phép thành lập Quỹ phát triển của doanh nghiệp để huy động đầu tư của xã hội cho KH&CN. Quỹ phát triển KH&CN quốc gia mới là nơi tài trợ cho nghiên cứu cơ bản như giáo sư nói. Tức là đòi hỏi kết quả đầu ra phải có công bố quốc tế, có kết quả cụ thể mới được giải ngân. Còn Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia chủ yếu là hỗ trợ cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ với vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng.

Giáo sư cũng yên tâm là bên cạnh hai quỹ này, Bộ KH&CN cũng được Chính phủ giao thành lập 16 chương trình quốc gia, chương trình trọng điểm cấp Nhà nước về KH&CN và gần 10 chương trình quốc gia về phát triển KH&CN. Trong đó có những chương trình rất lớn như Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao, Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia,…

Như vậy những cụm công trình lớn, những vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh kể cả những công trình không được công bố quốc tế, không được đăng báo và các tạp chí quốc tế vẫn được nhà nước chăm lo và thậm chí hỗ trợ mạnh để có thể tạo ra những sản phẩm KH&CN phục vụ cho sản xuất, đời sống. Ví dụ như giàn khoan dầu khí, chế tạo động cơ cho ô tô xe máy, các chương trình hỗ trợ cho nông nghiệp nông dân và nông thôn.

- Thưa Bộ trưởng, cơ chế, điều lệ tổ chức hoạt động của Quỹ như vậy có hạn chế được tình trạng đề án khoa học cất ngăn kéo như đang xảy ra hay không?

Nói về đề tài cất ngăn kéo, có thể nói không phải chỉ có cơ chế chính sách của chúng ta, bản thân trong khoa học đã có đề tài làm ra để xếp ngăn kéo. Đó là nghiên cứu cơ bản. Nó phải đi trước thời đại, vì thế phải để ngăn kéo cho đến khi nào trình độ phát triển của xã hội đạt được mức độ nào đó mới ứng dụng được. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu ứng dụng xếp ngăn kéo là không thể chấp nhận được. Trước đây tỉ lệ này còn khá lớn, bởi giữa nghiên cứu và sản xuất chưa có cầu nối để nghiên cứu xong có thể ứng dụng được.

Vì vậy, sự ra đời của các quỹ có hai mặt tích cực. Thứ nhất, tạo cơ chế thuận lợi cho giới khoa học trong nghiên cứu, khi họ có ý tưởng nghiên cứu được phê duyệt sẽ được cấp tiền nghiên cứu ngay. Thứ hai, các quỹ này khi tài trợ cho nghiên cứu theo cơ chế đặt hàng nên những đề tài nào có địa chỉ ứng dụng, có khả năng thương mại hóa sẽ được nhà nước đặt hàng và quỹ sẽ tài trợ. Chắc chắn sau khi nghiên cứu xong sẽ có người tiếp nhận kết quả ấy và đưa vào sản xuất kinh doanh. Chúng tôi tin tưởng, với cơ chế quỹ chắc chắn việc đề tài xếp ngăn kéo sẽ giảm đi rất nhiều.

- Một số nhà khoa học lo ngại, với cách đầu tư của Qũy như thế chúng ta mới chỉ khuyến khích được sự phát triển của các nhà khoa học riêng lẻ mà không tạo được tập thể các nhà khoa học mạnh. Bộ trưởng nghĩ sao về vấn đề này?

Điều đó chỉ đúng với Quỹ phát triển KH&CN quốc gia ở giai đoạn ban đầu. Tức là, quỹ này tài trợ cho nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản thường là một nhóm nhà khoa học hoặc cá nhân nhà khoa học có thể làm được. Vì vậy, nó sẽ là tập hợp của những nghiên cứu mang tính đơn lẻ. Tuy nhiên giới khoa học có thể yên tâm, bên cạnh quỹ này còn có các chương trình trọng điểm cấp Nhà nước, chương trình quốc gia về KH&CN. Với cơ chế hoạt động của các chương trình này sẽ tạo được những tập thể khoa học mạnh. Bởi chúng ta không thể nghiên cứu các sản phẩm quốc gia như vi mạch hay văc-xin mà chỉ có một vài người, phải đòi hỏi một tập thể các nhà khoa học từ nghiên cứu cơ bản đến nghiên cứu ứng dụng và những người trong khâu đầu tư sản xuất, kinh doanh, tạo ra những sản phẩm lớn cho xã hội.

Cũng liên quan đến Đề án này một số nhà khoa học nông dân (tạm gọi như vậy) có rất nhiều sáng chế, sản phẩm do những người nông dân tự làm ra và ứng dụng vào cuộc sống. Họ đặt câu hỏi, chúng tôi đang đứng ở đâu trong đề án này.

Với nhà khoa học nông dân hay còn gọi là nhà khoa học chân đất, chúng ta hoàn toàn có thể yên tâm. Nếu họ có ý tưởng sáng tạo, Nhà nước đều có thể hỗ trợ, trước kia thông qua hệ thống Quỹ Phát triển KH&CN, giờ có thêm Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia. Bên cạnh đó, năm 2012, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 13/2012/NĐ-CP ban hành Điều lệ Sáng kiến, trong đó quy định tất cả những người có sáng kiến, dù những sáng kiến ấy có thể chưa đạt tới tầm của một phát minh hay sáng chế vẫn được nhà nước quan tâm hỗ trợ.

Nhân chương trình này, chúng tôi đề nghị các Sở KH&CN thuộc 63 tỉnh thành, phố quan tâm đến những người dân có sáng kiến cải tiến kỹ thuật áp dụng vào sản xuất, hỗ trợ họ tối đa từ việc hỗ trợ kinh phí để hoàn thiện sáng kiến tới việc giúp đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ, thương mại hóa sáng kiến vào sản xuất kinh doanh nhằm đem lại lợi ích cho cá nhân họ cũng như xã hội.

Hiền Hạnh (lược ghi)