Bản in
Tương lai của khoa học thuộc về thế hệ trẻ
Đã từ lâu, tên tuổi của Giáo sư, Tiến sĩ vật lý Jean Trần Thanh Vân, Việt kiều Pháp trở nên thân thuộc với cộng đồng khoa học trong nước và quốc tế qua các hoạt động khoa học sôi nổi và những đóng góp cho nền giáo dục nước nhà. Bên lề cuộc Gặp gỡ Việt Nam 2013 đang tổ chức ở thành phố Quy Nhơn, Bình Định, phóng viên Báo Nhân Dân đã có dịp trò chuyện với GS Trần Thanh Vân về những ý tưởng, kế hoạch xây dựng nền khoa học Việt Nam hiện đại.

Những ý tưởng phát triển khoa học ban đầu

Tôi gặp vợ chồng GS Trần Thanh Vân và bà Kim Ngọc lần đầu vào dịp Gặp gỡ Blois năm 2006. Trong suốt một tuần lễ tại lâu đài Blois cổ kính xây từ thời kỳ Phục hưng bên dòng sông Loire thơ mộng ở miền trung nước Pháp, gần 100 nhà khoa học đến từ nhiều nước trên thế giới say sưa thuyết trình những kết quả nghiên cứu mới nhất về vũ trụ học, vật lý hạt và vật lý lý thuyết. Ông bà Trần Thanh Vân vẫn luôn bận rộn, khi thì trả lời các bạn bè cũ là những nhà khoa học đã gắn bó với ông bà trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học hơn nửa thế kỷ, khi thì gọi điện giải thích nội dung cuộc hội thảo cho những người quan tâm muốn tìm hiểu. Giọng nói nhỏ nhẹ, ý tưởng khiêm nhường, ông bà để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc về hình ảnh những nhà khoa học cần cù, khiêm tốn nhưng đầy nhiệt huyết…

PV: Là Chủ tịch Hội Gặp gỡ Việt Nam, đây là lần thứ chín giáo tổ chức cuộc Gặp gỡ Việt Nam trong vòng 20 năm qua, vậy đâu là nguồn cảm hứng và động lực để tổ chức những sự kiện này, thưa giáo sư ?

GS Trần Thanh Vân: Trước hết, động lực để tôi làm những công việc đó là do tôi luôn nhớ tới những lúc khó khăn hồi còn nhỏ. Những lúc ấy, đời sống kinh tế chật vật. Ngay cả cuộc sống đang trong thời kỳ chiến tranh cũng không biết là ngày mai mình có còn sống hay không. Tôi có may mắn hơn nhiều bạn học là được đi học rồi đi nước ngoài du học. Hàng trăm người bạn học hồi niên thiếu của tôi không có điều kiện đi nước ngoài du học và phần lớn trong số họ đã qua đời. Nhờ có sự may mắn ấy mà tôi có được sự nghiệp và cuộc sống như ngày hôm nay. Vì vậy tôi luôn tâm niệm rằng mình phải làm gì giúp đỡ các thanh, thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn khác không có điều kiện được du học để các bạn trẻ có cơ hội được đi học và thành danh ở nước ngoài.

Lý do thứ hai cũng rất quan trọng đó là nhờ hoàn toàn vào thành quả mà chúng tôi có được từ quá khứ sau khi tổ chức thành công các cuộc gặp gỡ quốc tế Moriond từ năm 1966 và Blois từ năm 1989 với các bạn bè và đồng nghiệp. Khi dự định tổ chức Gặp gỡ Moriond năm 1966 ở Pháp, các nhà khoa học trẻ chúng tôi lúc ấy đã đồng ý với nhau về nguyên tắc là các cuộc gặp gỡ dựa trên mục tiêu đầu tiên là hỗ trợ các nhà khoa học trẻ có điều kiện được tiếp cận với những thông tin mới nhất về khoa học thông qua các cuộc tiếp xúc với các nhà khoa học thành danh và có điều kiện thuyết trình ý tưởng và đề tài nghiên cứu của cá nhân.

Có thể so sánh rằng, vào những thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, tình hình nghiên cứu khoa học ở Pháp cũng hơi “quan liêu” một chút giống như ở ta hiện nay. Chỉ có các nhà lãnh đạo các trung tâm nghiên cứu khoa học mới được cơ quan cử đi dự các cuộc hội thảo khoa học quốc còn các nghiên cứu sinh và nhà khoa học trẻ rất ít có cơ hội được tiếp cận.

Chính vì những mối quan tâm ấy, sau khi tôi bảo vệ luận án tiến sĩ được ba năm, vào năm 1966 tôi và các bạn cùng quan điểm tổ chức Gặp gỡ Moriond để tạo nên một diễn đàn cho các nhà khoa học trẻ có cơ hội tiếp cận với nền khoa học hiện đại mang tầm quốc tế.

Kể từ đó đến nay gần nửa thế kỷ, có rất nhiều nhà khoa học trẻ đến từ các nước trên thế giới tham dự các cuộc gặp gỡ Moriond để thuyết trình các công trình đầu tiên trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học của họ. Một điều hạnh phúc đối với tôi là rất nhiều nhà khoa học quốc tế đã thành công và trở nên nổi tiếng thế giới bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu từ các cuộc gặp gỡ Moriond và sau này là Blois. Khi thành danh rồi, rất nhiều người nói với tôi rằng chính nhờ sự khuyến khích của chúng tôi mà những bài thuyết trình đầu tiên của họ tại các cuộc gặp gỡ khoa học là điểm xuất phát quan trọng khích lệ họ tiếp bước trên con đường nghiên cứu khoa học.

Một trong những nhà khoa học sau này đoạt giải Nobel là giáo sư Glashow người Mỹ chính là người đã dự Gặp gỡ Moriond năm 1971. Giáo sư Glashow hồi ấy tham dự cuộc gặp Moriond đã có tiếng tăm nhưng chưa đoạt giải Nobel. Tôi còn nhớ nhiều nhà khoa học trẻ từng gặp giáo sư Glashow tại cuộc gặp năm 1971 kể với tôi rằng họ rất vui và sung sướng vì đó là lần đầu tiên họ có điều kiện được tiếp xúc với những nhà khoa học tài năng. Khi giáo sư Glashow được vinh danh, ông vẫn thường xuyên nhớ đến tôi. Phải nói rằng ông Glashow khi đến với chúng tôi vẫn còn trẻ. Chính những mối quan hệ bạn bè từ thủa trẻ ấy rất bền vững cho đến tận ngày nay. Ngay cả bây giờ, khi chúng tôi mời và đề nghị các nhà khoa học trưởng thành từ các cuộc gặp gỡ Moriond và Blois cộng tác và đến dự, họ luôn luôn giúp với tinh thần nhiệt tình và vô tư.

Chúng tôi luôn chú trọng tới sự phát triển của đội ngũ các nhà khoa học trẻ thông qua những cuộc tiếp xúc với các nhà khoa học nổi tiếng bởi các nhà khoa học thành danh hiểu rằng ngày xưa họ cũng đã từng như vậy.

Năm nay, Hội Gặp gỡ Việt Nam tổ chức hội nghị theo bốn chủ đề chính về vật lý hạt, vũ trụ học và công nghệ nano. Đối với chương trình hội nghị khai trương Trung tâm quốc tế gặp gỡ khoa học và giáo dục liên ngành được tổ chức từ ngày 12 đến 17-8, Hội chúng tôi phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ dưới sự bảo trợ của UNESCO nhân dịp kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Pháp. Tròn 20 năm đã qua kể từ khi chúng tôi tổ chức cuộc gặp gỡ đầu tiên tại Việt Nam. Trong thời gian đó, hợp tác về khoa học và giáo dục giữa Việt Nam và Pháp nói riêng cũng như với các nước có nền khoa học và giáo dục tiên tiến khác ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đó là một thành công lớn.

PV: Những khó khăn và thuận lợi trong quá trình tổ chức các cuộc Gặp gỡ Việt Nam là gì, thưa giáo sư?

GS Trần Thanh Vân: Để có thể tổ chức được cuộc gặp gỡ Việt Nam đầu tiên vào năm 1993 thành công như vậy, phải kể đến sự hỗ trợ hoàn toàn và tình bạn sâu xa của Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu, lúc đó là Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam.

Tôi gặp anh Hiệu lần đầu tiên vào năm 1963, lúc ấy anh Hiệu vừa bảo vệ xong luận án tiến sĩ ở Liên Xô và tôi cũng vừa hoàn thành việc bảo vệ luận án tiến sĩ ở Pháp. Hai anh em gặp nhau ở một hội nghị quốc tế tổ chức ở Italy. Mặc dù lúc ấy giữa miền Nam và miền Bắc Việt Nam còn có những quan điểm khác nhau nhưng anh Hiệu là người có đầu óc cởi mở. Chúng tôi nói chuyện và cảm thấy hợp. Kể từ đó, chúng tôi thường xuyên trao đổi thông tin.

Năm 1990 anh Hiệu có nhờ tôi tổ chức cuộc gặp giống như ở Moriond để các nhà khoa học Việt Nam có cơ hội gặp gỡ các nhà khoa học quốc tế. Chúng tôi bàn và quyết định sẽ tổ chức hội nghị đầu tiên vào năm 1993 tại Đà Lạt.

Do lúc đó đất nước ta vẫn còn bị cấm vận, việc tổ chức cuộc Gặp gỡ Việt Nam lần đầu gặp nhiều khó khăn. Chúng tôi đề ra mục tiêu cố gắng mời một giáo sư đoạt giải Nobel là người Mỹ tới dự và người chúng tôi hướng tới là giáo sư Jack Stenberger. Việc làm visa mời Giáo sư Jack Stenberger và các nhà khoa học phương Tây tới Việt Nam dự hội nghị cũng rất phức tạp, nhưng cuối cùng được sự ủng hộ nhiệt thành của anh Hiệu, hội thảo đã thành công.

Năm nay tôi mời giáo sư Stenberger tới dự Gặp gỡ Việt Nam nhân kỷ niệm 20 năm tổ chức và giáo sư bằng lòng nhận lời ngay mặc dù năm nay đã 92 tuổi. Anh cũng biết rằng ở độ tuổi ấy, không ai muốn đi đâu cả.

Lần tổ chức ban đầu gặp nhiều khó khăn khác do cách tổ chức hội thảo ở Việt Nam khác ở nước ngoài. Thông thường ở Việt Nam, các đại biểu đến hội thảo được phát phong bì. Tôi có ý kiến không nên đưa phong bì cho các nhà khoa học nước ngoài dự hội thảo vì như vậy các nhà khoa học sẽ không hiểu và thấy kỳ lắm. Lúc đó cũng có nhiều ý kiến phản đối rất căng. Sau này, việc đưa phong bì tại hội thảo cho các nhà khoa học quốc tế đã biến mất. Đấy là một việc tốt.

Quá trình tổ chức các cuộc gặp gỡ Việt Nam sau này của chúng tôi lại gặp những khó khăn khác. Khi chúng tôi tổ chức các hội nghị thành công cũng có nhiều người không thích. Nhiều nơi cũng không thật sự ủng hộ cách làm việc của chúng tôi còn đặt ra điều kiện này điều kiện nọ. Chúng tôi trả lời họ rằng chúng tôi làm công tác khoa học như vậy là hoàn toàn độc lập không phụ thuộc để phát triển nền khoa học nước nhà chứ không có mục đích gì khác. Với sự ủng hộ triệt để của anh Nguyễn Văn Hiệu, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng dần hiểu thêm công việc của chúng tôi và rất mừng là các vị lãnh đạo hiện nay hết sức ủng hộ.

Cuộc nói chuyện liên tục phải gián đoạn vì ông luôn phải trả lời điện thoại. Những ngày này ông vô cùng bận rộn để chuẩn bị cho nội dung Lễ khai trương Trung tâm quốc tế gặp gỡ khoa học và giáo dục liên ngành. Cho đến thời điểm này, ông bà vẫn phải hàng ngày ra công trường theo dõi công tác hoàn thiện các hạng mục bởi đó là công trình thế kỷ mà ông bà mong mỏi xây dựng đã 15 năm nay.

Một ban công nhìn ra châu Á

PV: Theo ý tưởng của các thành viên sáng lập Hội Gặp gỡ Việt Nam, Trung tâm quốc tế gặp gỡ khoa học và giáo dục liên ngành (ICISE) khai trương ngày 12-8 tới sẽ là trung tâm học thuật quan trọng mang tầm vóc quốc tế, theo giáo sư, để trung tâm phát huy hiệu quả, điều kiện cần và đủ gồm những gì?

GS Trần Thanh Vân: Tôi nghĩ rằng việc xây dựng trung tâm giống như xây một ngôi nhà. Muốn ngôi nhà tốt thì cột trụ phải chắc chắn.

Đối với Trung tâm quốc tế giao lưu khoa học và giáo dục liên ngành, yếu tố điều thuận lợi đầu tiên là chúng ta đã chọn được một địa điểm lý tưởng để các nhà khoa học khi đến đây cảm thấy thoải mái với khung cảnh thiên nhiên hài hòa.

Yếu tố thứ hai là chúng ta có một kiến trúc hết sức hoành tráng làm cho người ta thích đến. Nhưng yếu tố quyết định là chúng ta có mạng lưới các nhà khoa học trên toàn thế giới với kinh nghiệm tổ chức các hội thảo khoa học quốc tế gần 50 năm nay. Cái ấy mới là điều quan trọng nhất.

Lẽ dĩ nhiên, chúng tôi sẽ tổ chức các cuộc gặp trong tương lai với hệ thống chúng tôi đã có sẵn. Ban đầu, chúng tôi phải đưa ban thư ký đã thạo việc từ Pháp về hỗ trợ công tác tổ chức. Sau đó, chúng tôi sẽ dần dần đào tạo đội ngũ tại để có thể đảm đương được công việc tốt hơn. Như vậy, chúng ta khai trương ICISE ban đầu với ba cột trụ rất chắc chắn. Giống như khi trồng một cái cây đã xanh tốt và có nụ, có hoa rồi, chúng ta phải làm sao để hoa nở nhiều hơn nữa.

Theo mong muốn của chúng tôi, ICISE sẽ trở thành địa điểm giao lưu khoa học của các nhà khoa học trẻ Việt Nam và châu Á với các nhà khoa học uy tín trên thế giới. Đây sẽ là cơ hội tốt cho các nhà khoa học của chúng ta có dịp tiếp xúc với các nhà khoa học quốc tế. Các nhà khoa học của các nước châu Á cũng sẽ có nhiều dịp học hỏi và trao đổi học thuật ở đây nhờ vị trí địa lý nằm ở trung tâm châu Á – Thái Bình Dương, giao thông thuận tiện. Hy vọng là ICISE sẽ trở thành một cánh cửa cho các nhà khoa học mở ra với châu Á và thế giới hữu hiệu.

PV: Theo kế hoạch, tại Lễ khai trương trung tâm sẽ có năm nhà khoa học từng đoạt giải Nobel tới dự, đó là một niềm vinh dự lớn lao đối với cá nhân ông và Việt Nam nói chung. Vậy giáo sư có kinh nghiệm gì chia sẻ với các đồng nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực khác để ngày càng có nhiều các nhà khoa học danh tiếng đến Việt Nam?

GS Trần Thanh Vân: Chúng ta đã có những cột trụ quan trọng của các lần tổ chức Gặp gỡ Việt Nam là các nhà khoa học đoạt giải Nobel. Trong tương lai, theo tôi, chúng ta không chỉ mời các nhà khoa học đoạt giải Nobel mà còn phải hướng tới các nhà khoa học có năng lực. Tại Lễ khai trương ICISE, chúng tôi sẽ mời nhà bác học Rolf Heuer, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) và Giáo sư Jean-Loup Puget, Giám đốc Chương trình nghiên cứu Planck trình bày những kết quả đặc sắc nhất về vật lý hạt và vật lý thiên văn trong năm vừa qua. Riêng đối với CERN, đây là phòng thí nghiệm quan trọng nhất thế giới của ngành vật lý hạt. Tất cả các nhà khoa học nghiên cứu vật lý hạt quốc tế đều đến đây nghiên cứu những thử nghiệm với máy gia tốc hạt lớn và hiện đại nhất thế giới.

Đối với các ngành khoa học khác, chúng ta rất cần sự cộng tác, hỗ trợ của các nhà khoa học hàng đầu khác, ví dụ như trong lĩnh vực công nghệ sinh học, v.v. Điều quan trọng là Việt Nam định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ theo hướng nào để có chủ đề tổ chức phù hợp.

PV: Ông bà đã tổ chức rất nhiều hoạt động hỗ trợ học sinh, sinh viên nghèo hiếu học và học giỏi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trên toàn quốc. Vậy ông bà làm thế nào để phân bổ quỹ thời gian và sức khỏe vốn đã rất eo hẹp cho một “núi” công việc đó?

Giáo sư Trần Thanh Vân trầm ngâm một lúc mới trả lời. Giọng ông chậm rãi hơn.

GS Trần Thanh Vân: Nói thật là Hội nghị khánh thành ICISE làm tôi tiêu hao nhiều sức khỏe. Thời gian qua, tất cả thời gian, công sức của chúng tôi đều bỏ vào con đường mà chúng tôi đã chọn lựa: đó là làm sao giúp đỡ các em học sinh, sinh viên được nhiều nhất.

Gần năm, sáu năm nay, chúng tôi không có thời gian đi nghỉ hè. Ở Pháp, chúng tôi thường xuyên làm việc với các nhà khoa học thế giới về các chương trình giúp đỡ Việt Nam. Mỗi năm chúng tôi về Việt Nam ít nhất từ bốn đến năm tháng. Trong bốn, năm tháng ấy, mỗi ngày của chúng tôi đều được sử dụng hết vào công việc. Nhưng bù lại, chúng tôi cảm thấy đó là niềm vui vì những gì mình làm mang lại ích lợi cho các em.

Ngày hôm qua, tôi gặp một em mà mình cũng không nhớ tên. Em thấy tôi đang đi trên đường liền đến chào và kể rằng: Trước kia em ấy nhờ có học bổng chúng tôi trao mà thành công. Ban đầu gia đình em định cho em thôi học vì hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn. Nhưng sau đó em ấy được nhận học bổng của chúng tôi trao tại Nhà hát lớn Hà Nội. Trước tình hình đó, gia đình em họp lại quyết định vay mượn thêm để hỗ trợ cho em đi học đại học nên em ấy mới thành công như ngày nay. Thành thử, tuy tất cả những công việc chúng tôi làm nhỏ như vậy nhưng mang lại nguồn vui rất lớn đối với chúng tôi.

Để khoa học phát triển

PV: Là người gắn bó cả cuộc đời với sự nghiệp nghiên cứu khoa học, giáo sư luôn quan tâm đến vai trò quảng bá và đào tạo khoa học. Theo đánh giá của giáo sư, chúng ta cần làm những gì để đưa nền giáo dục, đào tạo khoa học cũng như công tác nghiên cứu khoa học ở Việt Nam tiếp cận mặt bằng chung của thế giới?

GS Trần Thanh Vân: Muốn làm khoa học thật sự phải bỏ toàn bộ thì giờ, công sức và trí tuệ vào nghiên cứu cẩn thận. Không thể nào có chuyện muốn làm khoa học lại phải vừa kinh doanh thêm để bảo đảm cuộc sống. Chính vì thế, nếu chính phủ không cho nhà khoa học, nhất là các nhà khoa học trẻ được hưởng một mức lương đủ sống, thì không bao giờ nền khoa học có thể phát triển và tiến xa được.

Chúng ta có thể lấy một ví dụ. Cách đây 50 năm, ở Trung Quốc, người ta đã đưa các giáo sư về các vùng quê đi lao động chân tay làm phá hoại cả nền khoa học. Trong khi đó ở Việt Nam chúng ta có các nhà lãnh đạo giỏi thì giáo dục của mình ở trình độ rất cao. Giờ đây, nhìn lại sau 50 năm, trình độ giáo dục của chúng ta đang đi xuống. Kết quả đó làm chúng tôi suy nghĩ nhiều. Chúng tôi mong mỏi làm sao có thể cải thiện được tình hình ấy.

Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển vì con người Việt Nam rất thông minh, cần cù và chịu khó. Vấn đề mấu chốt ở chỗ chính phủ cần tạo ra cơ chế phù hợp cho khoa học và giáo dục phát triển. Cần phải đầu tư mạnh mẽ cho công tác nghiên cứu khoa học cũng như tạo cơ chế cho các nhà khoa học làm việc độc lập.

PV: Giáo sư từng gặt hái nhiều thành công trong sự nghiệp ở nước ngoài với nhiều giải thưởng quốc tế danh giá. Đặc biệt, Chính phủ Pháp đã vinh danh các hoạt động đóng góp cho sự nghiệp phát triển khoa học của ông đối với nước Pháp và thế giới bằng Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh. Đến thời điểm này, ông bà muốn chia sẻ những điều gì với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài - nhất là với những nhà khoa học đã thành danh - để đóng góp xây dựng quê hương?

GS Trần Thanh Vân: Chúng tôi luôn khích lệ các nhà khoa học Việt Nam thành danh ở nước ngoài về quê hương đóng góp xây dựng quê hương. Tuy nhiên, theo quan điểm của cá nhân tôi, vấn đề tạo cơ chế khích lệ các nhà khoa học trẻ ở trong nước có điều kiện tiếp xúc với các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế là vô cùng quan trọng. Có nhiều sinh viên Việt Nam du học ở nước ngoài đạt kết quả rất xuất sắc nhưng khi về nước gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, môi trường làm khoa học bị hạn chế nên các em không thể phát huy hết năng lực và kiến thức đã học tập ở nước ngoài.

Vấn đề ở đây là cơ chế khuyến khích và tạo động lực cho các nhà khoa học trẻ được thể hiện mình. Đối với bất kỳ một đất nước nào, tương lai của khoa học đều thuộc về thế hệ trẻ.

PV: Xin trân trọng cảm ơn giáo sư.

Bắt tay giáo sư thật chặt và chúc ông bà luôn mạnh khỏe, tổ chức thành công Gặp gỡ Việt Nam lần thứ 9, trong tôi hiện lên hình ảnh hôm trước đi cùng ông bà và đoàn đại biểu Gặp gỡ Việt Nam 2013 kiểm tra tiến độ hoàn thiện Trung tâm quốc tế gặp gỡ khoa học và giáo dục liên ngành nằm trong một thung lũng tuyệt đẹp kề bên Trại phong Quy Hòa nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử đã sống những ngày đau đớn và tuyệt vọng cuối cùng của cuộc đời. Chỉ cách trung tâm thành phố Quy Nhơn gần 5 km, tọa lạc trên khuôn viên rộng gần 20 hecta, tòa nhà hội nghị thiết kế theo mẫu của Kiến trúc sư nổi tiếng người Pháp Milou, tác giả của công trình viện Bảo tàng quốc gia Singapore nổi tiếng, đã thành hình đang được các nhà thầu tích cực triển khai các công đoạn cuối cùng chuẩn bị cho lễ khai trương. Nối tiếp sẽ là các công trình phụ trợ gồm khách sạn tiêu chuẩn quốc tế, nhà hàng, các ngôi nhà nhỏ có mái hiên rộng, sân thể thao, câu lạc bộ vui chơi giải trí dành cho các nhà khoa học đến dự hội thảo và nghỉ dưỡng, bể bơi nước ngọt, v.v. Với địa thế tuyệt đẹp dựa lưng vào núi, chung quanh là rừng dừa bạt ngạt, có dòng suối nhỏ róc rách và bãi biển thuận tiện cho tắm biển quanh năm, Trung tâm nằm ở vị trí đắc địa của cả dải đất miền trung. Câu chuyện về dự án xây dựng ICISE cũng là cả một câu chuyện dài. Trước hết đó là sự hưởng ứng tích cực của lãnh đạo tỉnh Bình Định và thành phố Quy Nhơn trước ý tưởng của giáo sư Trần Thanh Vân muốn xây dựng một trung tâm hội thảo khoa học tầm cỡ quốc tế ở một thành phố miền trung bên bờ biển Đông. Quá trình xây dựng cũng gặp nhiều khó khăn và không kịp hoàn thiện đúng như dự kiến ban đầu do năng lực nhà thầu đầu tiên không bảo đảm, tốn kém nhiều tiền của, thời gian và công sức. Giáo sư Trần Thanh Vân đã yếu hơn rất nhiều so với lần đầu tôi gặp ở lâu đài Blois năm 2006. Có lẽ gánh nặng tuổi tác và quá trình lao động cật lực chuẩn bị cho công tác xây dựng và hoàn thiện Trung tâm đã khiến sức khỏe của ông giảm sút nghiêm trọng. Ông phải chống batoong để đi lại. Trên con đê dài nối từ nhà hội nghị trung tâm tới bãi biển cát dài mịn, phải có hai người dìu ông đi để tránh những phiến đá lát đường mấp mô. Bà Kim Ngọc đi sau ông vài bước cũng cần có người dìu. Hai vợ chồng ông tóc đã bạc phơ. Chân bước chậm, bà vẫn cố gắng nhắc chồng: “Anh đi cẩn thận vào chỗ đường phẳng kẻo ngã”. Rồi hai ông bà tựa vào nhau đi chầm chậm ra bãi biển. Tôi tranh thủ chụp những khoảnh khắc hiếm hoi ấy. Chứng kiến đôi vợ chồng già lặng im trong chiều hoàng hôn dần buông xuống ngắm thung lũng hoang vắng ngày xưa đang mọc lên một công trình khoa học tầm vóc quốc tế, tôi hiểu rằng chính tình yêu thắm thiết của đôi bạn đời tri kỷ và tấm lòng thiết tha với quê hương, đất nước là sức mạnh để ông bà có thể vượt qua biết bao sóng gió, thử thách của cuộc đời để có thể tới được bến bờ hạnh phúc và để lại một công trình tâm huyết sẽ là “ngôi đền khoa học” cho các thế hệ tương lai.