|
|||
Đa số các ý kiến thu được từ các nhà khoa học của Đại học Bách khoa Hà Nội trong cuộc tọa đàm vừa qua cho rằng nên đặt ra những mục tiêu khả thi và những tiêu chí cụ thể gắn với thực trạng phát triển KH&CN ở Việt Nam. Mục tiêu và tên gọi Theo PGS. TS Phạm Thành Huy từ Viện Tiên tiến KH&CN (AIST), cho rằng gần đây, một số ý kiến bàn về xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, nhưng tên gọi này dễ gây hiểu lầm cho công chúng cũng như bản thân giới khoa học. Ông cho rằng cần sử dụng đúng tên gọi là trung tâm nghiên cứu mạnh như đã nêu trong Chiến lược Phát triển KH&CN 2011-2020. Việc gọi đúng tên là trung tâm nghiên cứu mạnh cũng nhằm phản ánh mục tiêu có tính thực chất hơn, đó là tụ họp các cá nhân và nhóm nghiên cứu có thực lực nhất nhằm thực hiện những hoạt động nghiên cứu phù hợp với mục tiêu chiến lược KH&CN của quốc gia. Quan điểm của PGS. Phạm Thành Huy phần nào cũng xuất phát từ một thực tế là phần lớn các hoạt động nghiên cứu ở Việt Nam chưa ở tầm mức xuất sắc so với quốc tế, và không ít trong số đó thậm chí chưa thực sự đạt những chuẩn mực khoa học chung thông thường. Theo GS. Trần Xuân Hoài, nguyên Viện trưởng Viện Vật lí ứng dụng và thiết bị khoa học, người cùng tham dự tọa đàm, mục tiêu cấp bách nhất đằng sau việc hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc là làm sao tạo dựng cơ chế và điều kiện thuận lợi cho những nghiên cứu trung thực. Ông cho rằng vấn đề quan trọng nhất là bản thân người làm khoa học phải trung thực với chính mình, phải thỏa mãn với việc mình làm, mà cả hai cái gốc này hiện nay ở Việt Nam đều đang thiếu. “Phải xác định đầu tiên là trở thành trung tâm xuất sắc của chính mình trước đã, rồi mới đến của trường, của nước, của vùng, của thế giới, ý kiến cá nhân tôi là hiện nay các nhà khoa học Việt Nam chưa xuất sắc với chính mình”, ông bày tỏ. Một số nhà khoa học có ý kiến đề nghị bổ sung những tiêu chí rõ ràng hơn cho mục tiêu thành lập các trung tâm nghiên cứu mạnh. TS. Đỗ Văn Nam từ AIST đặt câu hỏi: “thành lập các trung tâm này cho ai?” Theo ông, các trung tâm mạnh cần được ưu tiên dành cho đối tượng là các nhà khoa học trẻ, những người còn dồi dào năng lực nghiên cứu và sáng tạo. Đồng nghiệp của ông ở AIST là TS. Vũ Ngọc Phan thì nhận định các trung tâm mạnh cần đưa ra chuẩn mực so sánh rõ ràng với một quốc gia cụ thể nào đó. “Chúng ta cứ khẳng định một cách chung chung là đạt tầm khu vực hay quốc tế thì không bao giờ có mục tiêu phấn đấu rõ ràng để thực sự tiến lên được”, ông nói. Theo GS. Nguyễn Đức Chiến, nguyên Viện trưởng Viện Vật lý Kỹ thuật, cần đặt ra những tiêu chí cụ thể cả đầu vào và đầu ra cho trung tâm xuất sắc như số lượng cán bộ tối thiểu và đòi hỏi trong đó phải có một vài cán bộ khoa học xuất sắc đứng đầu; số công bố quốc tế ISI, số patent, số nghiên cứu sinh đào tạo được, số hợp đồng ký với công nghiệp hằng năm, và số doanh nghiệp spin off phát triển ra từ đó. “Đương nhiên để đạt ngay các mục tiêu này sau một hai năm thì khó, nhưng tùy từng nơi, có thể sau 6-7 năm hay 8-9 năm, cần đánh giá lại một lần”, ông nhận định. Cùng quan điểm rằng các trung tâm nghiên cứu mạnh cần được đặt ra những mục tiêu và tiêu chí cụ thể, nhưng GS. Trần Xuân Hoài cảnh báo rằng những con số như lượng patent hay công bố ISI trên thực tế đều có thể được con người dàn dựng, chẳng hạn như bằng cách tham gia ghé vào các nghiên cứu dùng nội lực nước ngoài, hoặc thậm chí với các nghiên cứu nửa thực nghiệm ở dạng mô phỏng (simulation) thì con số công bố có thể lên rất cao, biến các tổ chức thành những “máy sản sinh bài công bố”. Nên dựa trên những nền tảng sẵn có Theo PGS. Phạm Thành Huy, một tổ chức nghiên cứu mạnh không nằm ra ngoài năm mô hình hình thành: từ nhóm nghiên cứu nhỏ; từ viện nghiên cứu lớn; từ phòng thí nghiệm công nghiệp; từ phòng thí nghiệm quốc gia; từ mối liên kết giữa trường đại học và ngành công nghiệp. Ông cho rằng về cơ bản hiện nay có hai cách tiếp cận. Cách thứ nhất là phát triển từ các nhóm nhỏ do các nhà khoa học tự tổ chức. Hướng tiếp cận này không tốn kém, do các nhà khoa học tự đi tìm nhiệm vụ và tự kiếm tiền từ đấu thầu các nhiệm vụ. Trong tiến trình phát triển, các nhóm này sẽ thu hút thêm nhân lực và tiếp tục lớn dần lên.
Cách tiếp cận thứ hai phổ biến hiện nay là một trung tâm sẵn có nào đó muốn được tăng cường sức mạnh bằng cách đề nghị Nhà nước cung cấp một khoản kinh phí để mua máy móc thiết bị. Ông cho rằng cần hết sức cẩn trọng với cách tiếp cận này vì các kinh nghiệm cho thấy nhiều khi người ta mua máy móc về chỉ để đắp chiếu. “Nên chăng chúng ta cần một cách tiếp cận khác hơn, đó là lựa chọn người đứng đầu, xây dựng nhóm nghiên cứu lõi mạnh, và khi nhìn thấy tiềm năng của nó thì Nhà nước mới đầu tư để trở thành nhóm nghiên cứu mạnh”, ông nhìn nhận. Chia sẻ quan điểm với PGS. Phạm Thành Huy, GS. Nguyễn Đức Chiến cho rằng phải tập trung tăng cường xây dựng các đơn vị nghiên cứu mạnh trên cơ sở đơn vị đã và đang hoạt động mạnh. Theo ông, cách làm phổ biến trên thế giới là dựa trên nền tảng là đội ngũ có sẵn, và dùng năng lực nội tại đó để lôi kéo các nhà khoa học từ nước ngoài. GS. Chiến khẳng định ở Việt Nam đã có những đơn vị nghiên cứu mạnh đủ sức hút như vậy, ví dụ như khối vật lý của Đại học Bách khoa Hà Nội trong khoảng 2-3 năm qua đã thu hút được hơn 20 tiến sĩ trẻ ở nước ngoài, những người vốn không phải do trường gửi đi đào tạo. Ngoài ra, theo GS. Nguyễn Đức Chiến, trong bối cảnh Việt Nam, muốn được sự ủng hộ của cả cơ quan quản lý và dư luận thì phải làm gì đó cho doanh nghiệp; trừ những nghiên cứu lý thuyết quá, còn lại đều có thể hợp tác với doanh nghiệp. Không chỉ phát triển từ đơn vị có sẵn, các trung tâm nghiên cứu mạnh còn phải là sự liên kết giữa các đơn vị khác nhau. “Ví dụ Đại học Bách khoa có ba viện thì chúng tôi tính có thể lập một trung tâm hoặc một phần của trung tâm xuất sắc khác, bởi đây không phải là tổ chức cứng nhắc, hành chính mà là một trung tâm nghiên cứu khoa học”, ông nói. Cần cơ chế như thế nào? Đầu tư dài hạn và có mốc đánh giá cụ thể Các nhà khoa học nhất trí rằng trên lộ trình xây dựng các trung tâm nghiên cứu mạnh phải đặt ra các mốc thời gian cụ thể và cần cam kết ủng hộ, đầu tư dài hạn của Nhà nước. PGS. Phạm Thành Huy dẫn kinh nghiệm của các phòng thí nghiệm trọng điểm, các trung tâm nghiên cứu xuất sắc của các nước thường có lộ trình 5, 7, hoặc 9 năm – theo ông, thời điểm đánh giá phù hợp cho các đơn vị nghiên cứu ở Việt Nam là 9 năm – và có yêu cầu cụ thể đối với từng mốc. Như vậy, các trung tâm sẽ chỉ được tiếp tục đầu tư khi đạt yêu cầu thẩm định tại các thời điểm đánh giá. PGS. Huy minh họa bằng kinh nghiệm từ Mỹ, khoảng năm 1972-73 Quốc hội Mỹ tiếp nhận ý kiến xây dựng các viện nghiên cứu liên đại học và công nghiệp. Tiến trình này không được triển khai ngay mà có giai đoạn chuẩn bị 3 năm để xây dựng ba mô hình thử nghiệm. Sau khi có kết quả đánh giá ba mô hình thử nghiệm, người ta mới xây dựng tiêu chuẩn cụ thể. Sau 30 năm, Mỹ xây dựng được hơn 100 viện nghiên cứu liên đại học – công nghiệp, nhưng đến thời điểm đánh giá năm 2008, chỉ còn hơn 30 đơn vị tự sống tự phát triển, còn lại tự giải tán. “Nghĩa là chúng ta phải nhìn nhận các trung tâm nghiên cứu mạnh không chắc sẽ mạnh mãi, và sẽ có những đơn vị buộc phải giải tán; nhưng nhìn xa hơn, những đơn vị sống sót đang là những đơn vị tạo ra rất nhiều patent có giá trị”, PGS. Huy nhìn nhận. Đầu tư tập trung, không dàn trải Theo GS. Nguyễn Đức Chiến, Nhà nước đóng vai trò quyết định trong đầu tư cho các trung tâm nghiên cứu mạnh. Ông cho rằng khi một đơn vị nghiên cứu đạt đến một mức nào đó thì nhà nước phải đầu tư mạnh, và ở nước nào cũng vậy, nếu không có chính sách rất mạnh, rất quyết liệt, tập trung, của nhà nước trong đầu tư cho khoa học thì không thể thành công. “Nếu Nhà nước chỉ ra nghị quyết mà kinh phí vẫn là vấn đề khó khăn thì mọi vấn đề khác chỉ để bàn cho vui”, ông thẳng thắn chia sẻ. Đối với các trung tâm nghiên cứu có tính ứng dụng cho các ngành công nghiệp, PGS. Phạm Thành Huy cho rằng quy chế nên thật đơn giản, đó là nếu các nhà công nghiệp đầu tư hai đồng thì nhà nước cho một đồng. “Cách làm này cũng giống như sản xuất thử nghiệm của chúng ta, là mô hình trên thực tế ở giai đoạn trước chúng ta đã thử nghiệm nhưng chưa thật sự sâu sắc và quy mô nhỏ hơn nên ảnh hưởng còn ít”, ông nói. Môi trường cởi mở, phù hợp với đặc thù KH&CN Có nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề tạo môi trường thoải mái phù hợp cho đặc thù hoạt động KH&CN. Theo GS. Nguyễn Đức Chiến, tổ chức nhân sự của các trung tâm xuất sắc không nên là tổ chức cứng, mà chỉ nên thuần túy là tập hợp của những người làm khoa học xuất sắc trong một lĩnh vực nào đó. TS. Đỗ Văn Nam cho rằng các nhà khoa học cần được tạo một môi trường giao lưu cởi mở và được sự tôn trọng cao từ các nhà quản lý, không cần quá câu nệ về thành tích mà nên để các trung tâm phát triển trong điều kiện tự nhiên. Cùng quan điểm rằng các nhà quản lý cần lắng nghe hơn nữa tâm tư nguyện vọng của các nhà khoa học, TS. Vũ Ngọc Phan khẳng định rằng với tình trạng quan liêu quá phổ biến như hiện nay thì dù có tổ chức nhiều cuộc hội thảo tọa đàm, nhưng các nhà khoa học có nói nữa cũng vô ích nếu các lãnh đạo không nghe thấy, và dù “chúng ta rất muốn xây dựng các trung tâm nghiên cứu mạnh, dù các hiệu trưởng và bản thân Bộ trưởng Bộ KH&CN rất muốn làm nhưng chưa chắc chúng ta đã đi đến kết quả mong đợi”, ông nói.
|