Người nghèo chịu tác động nhiều nhất
TS Nguyễn Văn Thắng, Phó Viện trưởng Viện Khoa học khí tượng - thủy văn và môi trường cho biết: BĐKH đang diễn ra và Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi lũ lụt và hạn hán, mực nước biển dâng và sự xâm nhập mặn. BĐKH còn là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng rủi ro về sức khỏe, như thường thấy sau các đợt nắng nóng gay gắt, sốt xuất huyết và sốt rét. BĐKH chắc chắn dẫn đến sự đỏng đảnh của thời tiết. Lượng mưa trung bình đang giảm đi vào tháng 12 đến tháng 5, nhưng lại tăng lên trong tháng 6 đến tháng 11, nhất là ở các vùng miền Bắc. Lũ lụt, hạn hán vì thế dễ xảy ra hơn, ảnh hưởng đến nông nghiệp, việc cấp nước, sản xuất thủy điện cũng như thương mại và sản xuất công nghiệp ở các khu vực đô thị.
TS Nguyễn Văn Thắng cho biết thêm: Với bờ biển dài 3.260km và hai vùng đồng bằng châu thổ có cao độ thấp, Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi BĐKH. Trong Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH được xây dựng vào cuối năm 2008, Việt Nam đưa ra ước số cho thấy mực nước biển có thể dâng trung bình là 1m vào năm 2100. Khi đó, hàng triệu hécta đất sẽ bị ngập, hàng chục triệu người Việt Nam có thể bị mất nhà cửa nếu nước biển dâng cao, tình trạng đói nghèo có thể tăng 21,2-35,0%, khoảng 27% diện tích rừng bị ngập mặn và 20% diện tích rừng đầm lầy sẽ bị ngập hoàn toàn, xâm nhập mặn gia tăng... Sản lượng lương thực có nguy cơ giảm sút lớn, đe dọa tới an ninh lương thực.
Vài năm gần đây, mùa bão ở nước ta diễn ra chậm hơn và điểm đổ bộ của bão đã chuyển dịch xuống phía Nam, với cường độ tăng hơn trước. Những thay đổi đó gây ảnh hưởng đến người dân ven biển, nhất là trong những lần nước biển dâng do bão; những đợt mưa to khi có bão đổ bộ vào đất liền gây ra các vụ sạt lở đất nặng nề ở vùng cao. Hơn ai hết, đối tượng chịu tác động nhiều nhất bởi BĐKH chính là người nghèo.
Trung ương khẩn trương, địa phương chậm trễ
Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 2-12-2008, trở thành định hướng chiến lược cơ bản để Việt Nam có thể "sống chung" với BĐKH. Chương trình này được thực hiện trên phạm vi toàn quốc theo ba giai đoạn: khởi động (2009-2010), triển khai (2011-2015) và phát triển (sau 2015).
Ông Đào Xuân Lai (Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam) cho biết: So với nhiều quốc gia trong khu vực, Việt Nam đã có sự chuẩn bị khá tốt để ứng phó với BĐKH. Cụ thể: Việt Nam đã xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH làm cơ sở huy động các nguồn kinh phí. Đây là tiền đề để nhiều nước quan tâm và hỗ trợ kinh phí giúp Việt Nam trong vấn đề này. "Điểm hạn chế của Việt Nam chính là thiếu nhà khoa học giỏi trong lĩnh vực BĐKH và lực lượng chuyên gia đàm phán quốc tế còn quá mỏng. Đặc biệt, nhiều cơ quan coi nhiệm vụ ứng phó với BĐKH là của riêng Bộ Tài nguyên - Môi trường chứ không phải là nhiệm vụ quốc gia" - ông Đào Xuân Lai nhận định.
TS Nguyễn Văn Thắng bổ sung thêm: Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, năm 2010 là thời điểm các bộ, ngành, địa phương hoàn thành việc xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, đến nay mới có 12/14 bộ, 8/63 tỉnh, thành phố có kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH, được bố trí kinh phí để khởi động xây dựng kế hoạch hành động. Điều đó dẫn đến việc phân bổ kinh phí năm 2010 mới dừng ở mức 67,5 tỷ so với tổng mức 287 tỷ đề xuất. Rõ ràng, các địa phương vào cuộc khá chậm và chưa đạt mục tiêu đề ra.
Tính đến thời điểm này, Việt Nam đã nhận được một số cam kết ban đầu về viện trợ không hoàn lại của Đan Mạch, UNDP, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Chương trình môi trường của Liên hợp quốc... (khoảng 120 triệu USD) và cam kết cho vay ưu đãi của Nhật Bản, Pháp, Ngân hàng Thế giới... (khoảng 800 triệu USD). Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) và Bộ Tài nguyên - Môi trường đang phấn đấu hoàn thành việc xây dựng các chương trình KHCN trọng điểm quốc gia về BĐKH trong tháng 6-2010. Ngoài ra, kịch bản BĐKH và nước biển dâng mới cũng sẽ được cập nhật vào cuối năm 2010 và 5 năm sau sẽ có bổ sung. Rõ ràng, BĐKH đã không còn là lời "hù dọa suông" của giới khoa học mà nó đã hiển hiện cùng rất nhiều nguy cơ và hệ lụy và việc ứng phó với nó giờ không còn là trách nhiệm của riêng bộ, ngành nào, mà phải là nhiệm vụ của toàn dân.
HNM
|