|
|||||||||||||
Giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về KH&CN là một trong những giải thưởng cao nhất của Việt Nam, là sự công nhận, tôn vinh, khích lệ của nhà nước đối với những cống hiến của các nhà khoa học Việt Nam ở các lĩnh vực Khoa học tự nhiên; Khoa học xã hội và nhân văn; Khoa học kỹ thuật; Khoa học nông nghiệp; Khoa học Y-Dược. Để được trao giải thưởng, các tác phẩm, công trình nghiên cứu phải đạt tiêu chí đặc biệt xuất sắc, có giá trị cao về khoa học, ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài trong đời sống nhân dân, góp phần vào phát triển sự nghiệp nước nhà.
Dưới đây là nội dung buổi tọa đàm. -TBT Vũ Hữu Nghị: Trước hết xin Thứ trưởng Chu Ngọc Anh giới thiệu vài nét về giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về KH&CN. Quá trình xem xét giải thưởng từ cấp liên ngành đến cấp nhà nuớc gặp những khó khăn và thuận lợi gì? Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Bộ KH&CN đã phối hợp với các cơ quan liên quan tiến hành quá trình xét tặng và đề nghị trao tặng giải thưởng HCM và giải thưởng Nhà nước về KH&CN lần thứ 4. Về quy trình chúng tôi thực hiện theo đúng các quy định của Nhà nước, quá trình xét giải được tiến hành độc lập theo ba cấp: cấp cơ sở; cấp bộ, ngành, tỉnh, thành phố tương đương; và cấp nhà nước. Riêng ở cấp nhà nước tiến hành theo 2 bước: thứ nhất hội đồng giải thưởng chuyên ngành, thứ hai là hội đồng giải thưởng cấp nhà nước. Trong lần xét thưởng vừa rồi, chúng tôi đã tổ chức 12 hội đồng chuyên ngành trên cơ sở 5 lĩnh vực lớn là khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học nông nhiệp và khoa học y-dược được tiến hành một cách hết sức nghiêm túc, khẩn trương, thận trọng, công tâm và khách quan ở tất cả các cấp hội đồng. Về quá trình xét tặng giải thưởng, từ khi bắt đầu tiến hành cho đến khi trình kết quả lên Chủ tịch nước và được công nhận, ký các Quyết định 103/QĐ-CTN, Quyết định 104/QĐ-CTN của Chủ tịch nước về trao tặng Giải thưởng HCM và Giải thưởng Nhà nước về KH&CN thì trong quá trình thực hiện cũng có nhiều yêu cầu chặt chẽ, đây là một quá trình lao động rất nghiêm túc và vất vả. Có nhiều công trình, cụm công trình có khối lượng tài liệu khổng lồ, có nhiều tác giả cùng tham gia; 02 trong số 32 công trình, cụm công trình có đồng tác giả là người nước ngoài đó là công trình “Tìm kiếm, phát hiện và khai thác có hiệu quả các thân dầu trong đá móng granitoit trước Đệ Tam bể Cửu Long, thềm lục địa Việt Nam” có 5 đồng tác giả là người Nga trong đó 3 người đã tham gia Lế trao Giải thưởng ngày 18/02/2012 vừa rồi. Công trình “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử” có GS. TS. Furuta Motoo người Nhật bản là đồng Chủ biên. Như vậy, việc làm sao xem xét theo đúng quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi của các tác giả, đồng tác giả cũng là công việc đòi hỏi quá trình xử lý hồ sơ chặt chẽ, nghiêm túc của hội đồng các cấp. Với nhiều công trình, cụm công trình có khối lượng đồ sộ, ví dụ Cụm công trình “Sự nghiệp văn học, báo chí Hồ Chí Minh và một số vấn đề lý luận, thực tiễn, văn hóa, văn nghệ Việt Nam” của Giáo sư Hà Minh Đức, việc phối hợp với bản thân tác giả và các Bộ, ngành liên quan để có được tên của cụm công trình có thể phản ánh đầy đủ, toàn diện, khách quan đóng góp của từng công trình, nhóm công trình cũng là một yêu cầu đặt ra đối với hội đồng các cấp, đặc biệt là đối với Nhà nước. Với những công trình ứng dụng công nghệ có sáng tạo đặc biệt, rõ ràng việc đánh giá về mặt thực tế sao cho chính xác, khách quan những đóng góp cho sự phát triển ngành KH&CN nói riêng và cho sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung đòi hỏi các cơ quan chức năng, hội đồng xét tặng giải thưởng các cấp cũng phải đi khảo sát, kiểm nghiệm thực tế. Trong nhiều trường hợp còn phải mời cả các chuyên gia độc lập tham gia và cộng tác đánh giá. Có thể nói, qua trình xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH&CN lần thứ 4 đã đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật, đã hoàn thành các đánh giá để kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước quyết định khen thưởng. Nhân đây, tôi thay mặt Bộ KH&CN xin cám ơn các nhà khoa học, các nhà quản lý đã lao động hết sức nghiêm túc, công tâm, khách quan và rất có trách nhiệm để hoàn thành công tác xét tặng Giải thưởng lần này.
Chúng tôi rất mong được Bộ KH&CN tiếp tục hỗ trợ để hoàn thiện công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng vùng nguyên liệu trinh nữ hoàng cung để sản phẩm có thể chiếm lĩnh được thị trường của nhiều nước trên thế giới. GS Hà Minh Đức: Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị anh hùng của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới. -TS.DS Ngọc Trâm: Tôi luôn xác định rất rõ là có thành công trong công việc, thì không thể tránh được những khó khăn. Mỗi khi gặp phải vấn đề gì khó khăn, người đầu tiên tôi nghĩ đến đó là cha mình (cha tôi là GS.TS khoa học Nguyễn Văn Chương, nguyên Tổng biên tập Bách khoa toàn thư VN, là một nhà giáo), khi gặp khó khăn, ông thường bình tĩnh giải quyết từng vấn đề. Học tập bố, mỗi lần gặp khó khăn, tôi thường suy nghĩ và bình tĩnh giải quyết. Khi tôi nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng viên thuốc Crila, có một nữ GS (giờ đã mất), từng nói với tôi, nếu việc nghiên cứu thành công, thì thuôc Crila (chữa ung thư tử cung) sẽ là loại thuốc đầu tiên chữa đươc căn bệnh này. Điều này thể hiện rằng vẫn còn có người chưa thực sự tin tưởng vào các công trình nghiên cứu dược liệu của Việt Nam, chưa thực sự tin tưởng vào các nhà khoa học của chúng ta. Tuy nhiên, tôi không vì thế mà nản bởi tôi có một cơ sở khoa học nghiên cứu chắc chắn. Hiện nay, viên thuốc Crila đã được qua thử nghiệm lâm sàng, chữa u xơ thành công tới 89,18%, rất cao so với các loại thuốc trên thế giới.
Còn việc tôi làm thế nào để cân bằng giữa việc nhà và cơ quan ư, đàn ông hay hay phụ nữ cũng chỉ có 24h/ngày. Sở dĩ tôi có ngày hôm nay là do tôi biết sắp xếp thời gian của mình một cách khoa học. Tôi vẫn về nhà nấu cơm mỗi chiều, trong khi nấu cơm, rửa rau, trong đầu tôi vẫn nghĩ về công trình của mình. Theo tôi, một nhà khoa học thành công là người luôn đam mê, biết tập trung cao độ. Một điều quan trọng nữa là sự hợp tác của các cộng sự có đức, có tài. Bên cạnh đó, với một nữ khoa học, sự ủng hộ của hậu phương cũng là một điều rất quan trọng. -TBT Vũ Hữu Nghị: Bạn đọc Nguyễn Tiến Hoàng ở TP.HCM đặt câu hỏi cho Thứ trưởng Chu Ngọc Anh: Ông đánh giá như thế nào về giá trị khoa học và công nghệ của các công trình? Những công trình và cụm công trình đạt giải thưởng lần này có ý nghĩa như thế nào đối với nền Khoa học và công nghệ nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội nói chung? Khi chúng ta xem xét ý nghĩa và đóng góp cho ngành KH&CN nói riêng và cho sự phát triển của đất nước nói chung theo quy định các công trình được chia làm ba loại. Đối với công trình nghiên cứu khoa học phải là những khám phá các quy luật của tự nhiên và xã hội, từ đó đem đến những chuyển biến quan trọng về nhận thức, thông qua đó có đóng góp tác động to lớn đối với kinh tế-xã hội. Các công trình nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ phải tạo ra được các giải pháp mới, giống mới, vật liệu mới, sản phẩm mới, từ đó đem lại tác động to lớn và hiệu quả đối với sự phát triển của bản thân nền khoa học và công nghệ cũng như đối với sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế. Các công trình ứng dụng công nghệ có sáng tạo đặc biệt phải ứng dụng được các thành tựu KH&CN thành công và đặc biệt sáng tạo Như vậy khi xem xét ở hội đồng các cấp và đặc biệt là trong thảo luận tại hội đồng cấp nhà nước để xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH&CN, giá trị khoa học, công nghệ, thực tiễn đóng góp đối với phát triển kinh tế xã hội, đóng góp đối với khoa học công nghệ đã được làm rõ đối với từng công trình, cụm công trình. Đây cũng là cơ sở quan trọng để Hội đồng Giải thưởng cấp nhà nước báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước xem xét ký quyết định tặng giải thưởng HCM, giải thưởng Nhà nước đối với các công trình, cụm công trình. Nói như vậy để thấy các ví dụ mà TS Trần Việt Hùng, GS Hà Minh Đức, TS Nguyễn Thị Ngọc Trâm đã trao đổi ở nhiều góc độ khác nhau đều có ý nghĩa về KH&CN nói riêng cũng như hiệu quả kinh tế xã hội nói chung được làm rõ thông qua các cấp. Có thể nói, giá trị đóng góp cụ thể đã được minh chứng rất rõ qua giá trị của các công trình, cụm công trình được trao tặng Giải thưởng. -TBT Vũ Hữu Nghị: Độc giả Văn Bách ở Đà Nẵng có câu dành cho TS. Trần Việt Hùng như sau: Nhiều tri thức trẻ đươc đào tạo trong và ngoài nước chưa mặn mà với công việc nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu ở lĩnh vực khoa học cơ bản. Ông có đồng tình với đánh giá này không và chúng ta cần có biện pháp gì để khuyến khích họ? Mặc dù trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã có nhiều cơ chế chính sách thu hút lực lượng trẻ nhưng có thể do điều kiện sống của chúng ta cũng chưa được cao, trong khi đó, ở nước ngoài lại có cơ chế phù hợp, hấp dẫn hơn để thu hút chất xám của mình nên việc thu hút những đóng góp của lực lượng công nghệ trẻ đối với sự phát triển của đất nước vẫn còn hạn chế so với tiềm năng đang có trong đội ngũ này. Vấn đề là làm sao để tạo được cơ chế thích hợp để thu hút lực lượng tri thức trẻ, đây là một trong những nhiệm vụ của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và chắc chắn Bộ KHCN cũng quan tâm tới vấn đề này. -TBT Vũ Hữu Nghị: Bạn đọc Hoàng Linh, Q. Bình Thạnh, TP.HCM xin được hỏi TS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm: Nghe nói, có nhiều loại cây trinh nữ hoàng cung khác nhau... Bà có thể cho biết chính xác loại cây trinh nữ hoàng cung nào dùng để trị bệnh? Tôi có thể dùng cây trinh nữ hoàng cung trồng ở ngoài để sắc nước và uống nhằm phòng trị một số bệnh phụ nữ không? TS.DS Ngọc Trâm: Cây trinh nữ hoàng cung mà chúng tôi sử dụng để bào chế thuốc trị u xơ tử cung có tên khoa học là Crinum latifolium. Theo tôi được biết, hiện có tới 7 loại cây trinh nữ hoàng cung hoàn toàn giống nhau, không thể phân biệt bằng mắt thường. Trong 7 cây này, có cây Náng hoa trắng, rất độc cho gan thận, cực kì nguy hiểm cho người bệnh. Vì thế, người bệnh nên thận trọng khi tự dùng cây trinh nữ hoàng cung để sắc lá uống. -TBT Vũ Hữu Nghị: Bạn Lê Ngọc Hân ở ĐH Sư phạm TP. HCM xin được hỏi GS. Hà Minh Đức: Thưa Giáo sư, nghiên cứu về văn, thơ, báo chí Hồ Chí Minh đã khó mà để nghiên cứu thành công thì càng khó hơn. GS được đánh giá là một trong rất ít người nghiên cứu thành công về văn thơ, báo chí của Người. GS có thể cho biết, cái khó nhất trong nghiên cứu văn thơ, báo chí Hồ Chí Minh là gì? GS có nghĩ rằng, sẽ có một thế hệ trẻ khó tiếp cận được với văn chương HCM không ? Ngoài ra, còn nhiều vấn đề khác. Ngay bản thân tôi chẳng hạn, sau khi viết xong 3 cuốn sách ấy, tôi lại tiếp tục viết một số bài khác như “Tác phẩm Hồ Chí Minh là thiên cẩm nang của cách mạng Việt Nam”. Đúng là cứ giở báo chí, tác phẩm của Người ra thì đúng là đó là tác phẩm của Người là thiên cẩm nang.
Tại một hội thảo ở Đà Nẵng với Đảng cộng sản và các chuyên gia Trung Quốc, bộ phận tuyên giáo và Đảng cộng sản Việt Nam có mời tôi viết một bài về Hồ Chí Minh. Tôi nhấn mạnh tư tưởng văn hóa đi trước của Bác. Có thể nói đây là một tư tưởng rất mới mẻ. Bác có nói một câu ngay từ năm 1946 là văn hóa soi đường cho quốc dân đi và năm 1947, Bác viết sửa đổi lối làm việc, đời sống mới đều nhấn mạnh vai trò của văn hóa trong tình trạng đất nước còn nhiều khó khăn. -TBT Vũ Hữu Nghị: Từ những công trình đạt giải thưởng nhà nước và giải thưởng Hồ Chí Minh về KHCN lần này, nhà nước ta có chính sách gì để tạo điều kiện cho các nhà khoa học trong việc nghiên cứu và đóng góp cho nền khoa học công nghệ quốc gia? (Báo Tin tức) Thứ hai, liên quan đến sự quan tâm của việc tăng cường ứng dụng các kết quả vào đời sống xã hội hiện nay, Bộ cũng chủ động tham mưu với Chính phủ trong giai đoạn mới này tập trung đưa nhanh các kết quả nghiên cứu, chuyển giao nhanh các công nghệ vào ứng dụng xã hội thông qua nhiều hoạt động và giải pháp khác nhau. Độc giả có thể tìm hiểu thêm thông tin qua các chương trình quốc gia đên năm 2020 như Chương trình quốc gia nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam; Chương trình Sản phẩm quốc gia; Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển công nghẹ cao. Ngoài ra, Bộ cũng tham mưu với Chính phủ chủ động mở rộng và điều chỉnh các kênh tài chính hỗ trợ thúc đẩy ứng dụng KH-CN như thông qua hệ thống các quỹ. Như các bạn đã biết thành công của Quỹ phát triển KH-CN quốc gia trong 3 năm qua đã tạo được tiếng vang trong cộng đồng KH-CN, góp phần trực tiếp vào việc số lượng bài báo, công trình khoa học được công bố trong nước và công bố quốc tế tăng gấp 2 lần so với giai đoạn 2001 - 2005 (trung bình 18%/năm), tập trung nhiều ở các lĩnh vực toán học, vật lý, khoa học vật liệu, sinh học phân tử, miễn dịch học - bệnh truyền nhiễm và y học nhiệt đới. Số lượng công bố quốc tế chỉ riêng trong 3 năm (2008-2010) đã tương đương với số lượng công bố quốc tế cả giai đoạn 10 năm (1995-2004) và gấp 3 lần Thái Lan, xét theo cùng thời điểm đạt mức thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD. Bên cạnh đó, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia mới được Thủ tướng ký năm 2011 đang được khẩn trương triển khai thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ, đồng thời huy động nguồn lực sáng tạo từ khu vực các trường đại học và viện nghiên cứu, đẩy mạnh thương mại hóa các kết quả nghiên cứu để đưa vào ứng dụng. Bên cạnh đó, từ góc độ cơ quan quản lý, thực hiện chỉ đao của Thủ tướng, Bộ đang khẩn trương hoàn thiện và trình Đề án Tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH-CN, trong đó tập trung vào các giải pháp: đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư tài chính cho KH-CN; đổi mới cơ chế chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ KHCN; đổi mới phương thức tổ chức và thực hiện nhiệm vụ KHCN... Tất cả những đổi mới này đều nhằm đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào ứng dụng phục vụ phát triển kinh tế xã hội theo yêu cầu của Đảng và Chính phủ.
-GS Hà Minh Đức: Thật ra ý tôi không phải như thế, tôi không dám so sánh với những tác phẩm của các bậc thầy, hơn nữa họ viết những thứ họ thích thì hấp dẫn lắm. Còn tôi làm cái việc của một nhà giáo, viết 1 cuốn sách có ích cho học trò, chứ tôi không có ý so sánh gì. Về công trình đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN năm 2010 của tôi bao gồm hai cụm. Đứng đầu vẫn là nhóm công trình văn thơ, báo chí Hồ Chí Minh. Tuy nhiên cụm công trình về Tự lực văn đoàn, trào lưu và tác giả và tác phẩm và một nền văn hóa văn nghệ đậm bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú cũng là tâm huyết rất lớn của tôi. Tôi xin nói vắn tắt thế này. Tự lực văn đoàn là một trào lưu lớn của văn học Việt Nam thời kỳ 30-45. Phải nói rằng nó gây một tiếng vang lớn nhưng những người đọc Tự lực văn đoàn không nhiều. Thời gian đã trôi qua nửa thế kỷ hoặc lâu hơn nữa nhưng dư âm của nó nhiều và việc đánh giá Tự lực văn đoàn rất phức tạp. Thời kỳ Tự lực văn đoàn xuất hiện và làm chủ thi đàn trong một thời gian khi đó đã có nhiều nhà văn phản đối như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố bởi bản thân thời kỳ đó người ta chưa chấp nhận Tự lực văn đoàn. Tuy nhiên, cái công của Tự lực văn đoàn không nhỏ, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Tự lực văn đoàn đưa văn xuôi Việt Nam vào quỹ đạo của thời kỳ hiện đại. Vì trước đấy mà đọc các tác phẩmvcác nhà văn khác có cách viết cũ, còn sang thời kỳ này nó mới mẻ hơn rất nhiều. Hai nữa, những đề tài mà Tự lực văn đoàn đề xuất như một số nhà nghiên cứu nói thì nó rất nặng về Việt Nam, mặc dù có thể chưa sâu nhưng phong cảnh làng quê, những chùa chiền, rồi con người được thể hiện khá tốt mang phong vị Việt Nam. Cái thứ ba những nhà văn xuất sắc của Tự lực văn đoàn cho đến nay vẫn có một vị trí quan trong văn học Việt Nam như Nhất Linh, Khái Hưng, đặc biệt là Thạch Lam. Thế nhưng khuyết điểm của Tự lực văn đoàn là một trào lưu lãng mạn cho nên nó không khớp với văn học cách mạng. Hai nữa, hai người xem như đứng đầu Tự lực văn đoàn là Nhất Linh, Khái Hưng cuối đời lại phản cách mạng, cho nên việc đánh giá vô cùng khó khăn. Sau cách mạng tháng Tám người ta cũng không nhắc đến Tự lực văn đoàn nữa mà có nhắc đến cũng chỉ nhắc đến Thạch Lam. Riêng tôi, ngay từ năm 1956 khi tôi còn đang học ở trường đại học tôi có viết một bài trên tờ Sinh viên Việt Nam về Tự lực văn đoàn. Nhưng sau đó nói chung là phải chờ đợi, chờ tương đối lâu, nhưng với tôi quá trình chờ đợi là quá trình tích lũy tư liệu. Lâu đến mức trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Tự lực văn đoàn không được đề cập, giới thiệu, quảng bá nhưng nhờ Nghị Quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI mở ra việc đổi mới tư duy và đánh giá lại những giá trị trước kia mà mình có thể chấp nhận thì khi ấy tôi trực tiếp mở một Hội thảo tại trường Đại học tổng hợp, mời các nhà văn tiêu biểu đến để phát biểu xem thực chất của Tự lực văn đoàn là như thế nào. Trên cơ sở những ý kiến ấy cộng với suy nghĩ của mình, tôi mới tiến hành nghiên cứu, khảo cứu một cách toàn diện về Tự lực văn đoàn thành một cuốn sách. Phần tôi viết vào khoảng trên 400 trang và phần phụ lục khoảng gần 300 trang. Đây là cuốn sách dư luận đánh giá là thỏa đáng và chấp nhận được, giải quyết được vấn đề phức tạp của Tự lực văn đoàn. Đối với tôi, Tự lực văn đoàn, trào lưu và tác giả đó là cả một sự nỗ lực rất lớn. Về công trình thứ ba là Bản săc dân tộc đậm đà với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú thì đây là thời điểm mà Nghị Quyết của Đảng về việc xây dựng một nền văn nghệ tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc mở ra trong ta hướng mà văn nghệ có nhiều giao lưu quốc tế và đặc biệt là nhấn mạnh đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa của dân tộc. Tôi viết cuốn này trong hoàn cảnh nhiều loại hình văn nghệ mới của ta đã trưởng thành và có nhiều thành tựu như Điện ảnh, nhiếp ảnh, kịch nói… Tôi tiến hành tìm hiểu bản chất của văn hóa Việt Nam, truyền thống văn hóa là gì? Trong tác phẩm tôi nhấn mạnh đến ba yếu tố: Một là về trí tuệ, tư tưởng mà bộ phận chuyên trở cái này là văn học. Do đó, văn học là yếu tố trội của văn hóa Việt Nam ví dụ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu cho đến Hồ Chí Minh. Yếu tố trội thứ hai là văn hóa Việt Nam có bàn tay vàng. Bàn tay vàng nói lên sức sáng tạo của dân tộc về nghệ thuật. Chúng ta hiện có trên một chục di sản văn hóa thì cũng phải thừa nhận một phần quan trọng là do bàn tay vàng sáng tạo nên. Cái thứ ba là vấn đề lễ hội. Tôi nghĩ lễ hội Việt Nam có một truyền thống rất sâu xa, thể hiện ý thức tôn trọng quá khứ, biết ơn quá khứ những người anh hùng của dân tộc, xiết chặt tình cảm của cộng đồng. Đó là ba điểm mà tôi nêu trong cuốn sách và năm 2009, cuốn sách này đã được giải thưởng sách hay. -TBT Vũ Hữu Nghị: Thưa TS.DS Ngọc Trâm, bạn đọc Ngọc Hà ở Lạng Sơn có thắc mắc: Từ cây trinh nữ hoàng cung bà đã chiết xuất được mấy loại sản phẩm?Những sản phẩm này có điều trị hiệu quả không? Một khía cạnh khác, từ góc độ của các nhà khoa học đã dành hết tâm sức của cuộc đời mình cho công trình nghiên cứu không nhằm tới việc được vinh danh và nhận giải, như Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Trâm đã chia sẻ, giải thưởng cao quý nhất cho những cống hiến, hy sinh, chiến công thầm lặng của các nhà khoa học là niềm hy vọng của các bệnh nhân khi được chữa trị kịp thời. Giá trị cụ thể của giải thưởng đợt này là 200 triệu đồng cho giải thưởng Hồ Chí Minh và 120 triệu đồng cho giải thưởng Nhà nước cũng đã thể hiện sự quan tâm rất lớn của Đảng và Chính phủ (gấp đôi đợt xét thưởng năm 2005). Về phía Bộ, chúng tôi cũng đề xuất và tham mưu ở mức giải thưởng lớn hơn, tuy nhiên chưa đạt được. Hy vọng trong giai đoạn sắp tới cùng các Bộ, ngành liên quan, chúng tôi sẽ phối hợp giải trình để Thủ tướng Chính phủ nâng mức tiền thưởng lên. Về số lượng giải thưởng, có lẽ chúng ta không nên đặt vấn đề so sánh số lượng các công trình đạt Giải thưởng trong từng đợt xét thưởng, bởi lẽ con số thống kê trong trường hợp này không có ý nghĩa minh chứng cho năng lực và hiệu quả hoạt động KH&CN của giai đoạn tương ứng. Đợt xét thưởng đầu tiên năm 1996, có 33 công trình (cụm công trình) KH&CN được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh; năm 2000 có 21 công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và có tới 71 công trình được tặng Giải thưởng Nhà nước. Năm 2005, có 12 công trình được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, 41 công trình được Giải thưởng Nhà nước. Đợt xét thưởng lần này, số lượng Giải thưởng có giảm với 12 công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và 20 công trình được Giải thưởng Nhà nước. Các đợt xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước đầu tiên về KH&CN gắn với các nhà khoa học kiệt xuất của nền KH&CN Việt Nam mà tên tuổi của họ đã đi vào lịch sử, trở thành các địa danh đất nước, như các giáo sư Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Phạm Ngọc Thạch, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Lương Đình Của, Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu và các thế hệ nhà khoa học xuất sắc kế tiếp như GS. VS Nguyễn Văn Hiệu, Hoàng Tụy, Vũ Đình Cự, Vũ Tuyên Hoàng, và nhiều, rất nhiều các nhà khoa học khác, các danh nhân của đất nước trong cả lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn. Về phía cơ quan quản lý, số lượng của các hồ sơ đăng ký xét giải cũng như số lượng của các công trình đạt giải phụ thuộc rất nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố đầu vào. Yếu tố đầu vào phụ thuộc vào sự chủ động của các tác giả tự nguyện xem xét, đánh giá giá trị của công trình của mình và tham gia đăng ký. Sắp tới chúng tôi cũng chủ trương để các cơ quan quản lý chủ động tìm kiếm, động viên khuyến khích các tác giả tham gia rộng hơn và tích cực hơn vào hệ thống giải thưởng này, kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý và LHH để tuyên truyền, hướng dẫn các nhà khoa học tham gia. -TBT Vũ Hữu Nghị: Dường như các công trình nghiên cứu khoa học ứng dụng khó đạt giải thưởng này vì các kết quả công trình này có thể đo đếm được. Liên hiệp hội có nên khuyến khích các nhà khoa học thuộc các Hội, Ngành tham gia vào giải thưởng trong thời gian tới không thưa TS. Trần Việt Hùng?
Vì vậy cho nên tôi nghĩ rằng các nghiên cứu ứng dụng này ít được giải hơn nhưng cũng không bị kiện cáo (nếu được giải) vì nó có thể đo đếm được. Về cơ bản đối với bản thân tôi chủ yếu là do tôi viết, bình luận. Tư liệu tôi có phải nói rất quý như một số ghi chép của tôi trong những lần trò chuyện với anh Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Trần Hữu Minh. Những người đó đã khuất và tôi tự nhận thấy những bài đó có thể còn xuất sắc hơn nhưng tôi không để ý lắm trong việc giải thưởng nên không đưa vào dự giải mà nhiệm vụ chính là nghiên cứu. Còn đánh giá sự thành công trong nghiên cứu khoa học xã hội hiện nay thì vượt khỏi tầm suy nghĩ của tôi nhưng theo tôi các công trình nghiên cứu xã hội, nhất là những đề tài lớn phải có thời gian thì người nghiên cứu mới có thể đi sâu tìm hiểu được những điều mà mình mong muốn. Tôi thấy ngày nay điều kiện nghiên cứu khoa học xã hội rộng hơn. Có thể nói, các tác phẩm hay, nổi tiếng thế giới về khoa học xã hội hiện nay phần lớn đều dịch cả nên còn nhiều cái để các bạn trẻ tìm hiểu lắm. Những công trình được giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về KH&CN đợt này trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, theo tôi, đó là những công trình lớn, rất xứng đáng. Trong tương lai, lớp trẻ hiện nay cũng có nhiều người rất xuất sắc nhưng chưa biểu thị thành những công trình có tính bền vững thôi. Do đó, tôi vẫn luôn hy vọng, tôi ít hy vọng về mình nhưng luôn hy vọng về thế hệ trẻ và thế hệ tương lai. -TS.DS Ngọc Trâm: Để có được mức giá như hiện nay cho mỗi sản phẩm, chúng tôi đã cố gắng hết sức để cải tiến công nghệ, hợp lý hóa từng khâu, tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng, nhân công, bố trí dây chuyền sản xuất khoa học, hợp lý… để nâng cao hiệu suất, giúp giá thành sản phẩm tốt nhất. Một ý nữa, là chúng ta vẫn chưa thay đổi mà vẫn có tiêu chí tính mốc từ năm 1945 đến nay. Vì vậy số lượng của lĩnh vực này hay lĩnh vực kia có thể nhiều hay ít trong một đợt xét giải cụ thể. Nếu nhìn ngược lại số lượng của các lĩnh vực có thể không nhiều trong kỳ này, ví dụ như lĩnh vực Nông nghiệp với 5 hồ sơ xét giải với 2 hồ sơ đoạt giải một được giải thưởng Hồ Chí Minh, một được giải thưởng Nhà nước. Thực sự cũng là kế tiếp các chặng đường của các thế hệ khác nhau, nhờ các giáo sư trong nông nghiệp mà chúng ta có được giống lúa mới phù hợp với vùng sinh thái, năng suất chất lượng cao; chúng ta có được giống ngô lai mới, có giống lợn lai năng suất và chất lượng cao… Tôi đang nói đến các kết quả gắn với thế hệ các giáo sư như cố TSKH.KS Vũ Tuyên Hoàng, GS.TS Trần Hồng Uy, GS.TS Nguyễn Thiện và nhiều giáo sư nông nghiệp khác. Kỳ này với công trình giống lúa sinh thái, tập quán canh tác của vùng Nam trung bộ thực sự tiếp tục có đóng góp rất quan trọng, góp phần đưa nông nghiệp tiếp tục có nhiều sản phẩm xuất khẩu có thứ hạng hàng đầu thế giới. Tôi nghĩ rằng, những chia sẻ đó sẽ cho chúng ta thấy đúng nghĩa hơn bức tranh, tuy nhiên cũng không nên so sánh cụ thể giữa lĩnh vực này so với lĩnh vực khác. TBT Vũ Hữu Nghị: Câu hỏi này xin được dành cho cả TS Ngọc Trâm và GS Hà Minh Đức: Thế hệ trẻ tham gia nghiên cứu khoa học hiện nay phải chịu áp lực rất lớn về thu nhập và phải cân bằng giữa làm công ăn lương với sáng tạo khoa học. Là những nhà khoa học được nhận giải thưởng cao quý lần này, GS và TS có lời khuyên gì cho thế hệ trẻ làm khoa học bây giờ? Và có những đề xuất gì về mặt cơ chế để khuyến khích các nhà khoa học trẻ? Tôi thấy các nhà khoa học ở các nước phát triển, khi lớn lên, đều có ảnh hưởng của 2 sự giáo dục: giáo dục từ gia đình và từ xã hội. Sự giáo dục này không phải đợi đến khi các cháu 17 – 18 tuổi mới truyền đạt, mà cái đam mê nghiên cứu, khoa học, tìm hiểu phải được truyền đạt cho các cháu từ khi còn rất nhỏ. Như vậy, vấn đề nằm ở tính cách, suy nghĩ, tố chất của con người. Mà vấn đề này không nằm trong phạm vi trách nhiệm của Bộ KH&CN, mà còn cả Bộ GD&ĐT, và các bậc cha mẹ nữa. -GS Hà Minh Đức: Tôi nghĩ, cần phải có một một nền giáo dục thật toàn diện. Điều quan trọng đối với các bạn nghiên cứu trẻ là phải học thật giỏi, phải tích cực nghiên cứu, say mê khoa học. Trong tương lai để khoa học phát triển thì các nhà khoa học phải có trí, yêu học thuật và sống có thực tế, đạo đức. -TBT Vũ Hữu Nghị: Câu hỏi cuối xin được hỏi Thứ trưởng Chu Ngọc Anh và TS. Trần Việt Hùng như sau: Các công trình nghiên cứu được trao giải lần này rất hay, rất xuất sắc. Nhưng Bộ KHCN và VUSTA có biện pháp gì để phổ biến các công trình nghiên cứu, thay vì chỉ để các công trình đó được lưu trữ trong thư viện, viện nghiên cứu?
Hầu hết hệ thống giải thưởng VIFOTEC đang phối hợp hài hòa chặt chẽ với nhau, để khen thưởng các công trình có giá trị to lớn với sự phát triển KH&CN, thông qua đó tôn vinh các tác giả. Hiện nay, Bộ cũng đang nghiên cứu hướng giải thưởng tôn vinh cho các nhà khoa học tài ba, vì KH và CN cũng là một chặng đường chông gai, gắn với nhiều tính rủi ro, và không phải ai đi trên con đường đó cũng đến được với vinh quang trên “thảm đỏ trải hoa hồng”, vì vậy cần ghi nhận đóng góp của các nhà khoa học đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu. -TBT Vũ Hữu Nghị: Kính thưa các vị khách quý, mặc dù còn rất nhiều câu hỏi mà độc giả đã gửi đến cho chương trình, nhưng do thời gian có hạn, chúng tôi xin phép được tạm dừng chương trình tại đây.
Một lần nữa, xin được cám ơn các vị khách mời và chúc sức khỏe quý vị. Xin cảm ơn các độc giả đã gửi câu hỏi tới tham gia chương trình và tới dự buổi tọa đàm hôm nay.
|